Tình Yêu, Tình Dục Và Hôn Nhân
Điều gì khiến một CDN lập gia đình?
Bạn tự hỏi khi đứng trước ngưỡng cửa hôn nhân, vì bây giờ bạn đã đi đến một quyết định. Sau khi đã suy nghĩ kỹ càng và cầu nguyện khẩn thiết, bạn đã khẳng định rằng chàng thanh niên này hoặc cô thiếu nữ xinh xắn kia là người Chúa chọn cho bạn để chung sống trọn đời. Cuối cùng thì các bạn nhận ra rằng các bạn cần sự hiện diện và tình bầu bạn của nhau không phải chỉ bây giờ mà suốt cả cuộc đời. Không thể nào mường tượng được cuộc sống thiếu vắng người yêu dấu.
Hôn nhân, vốn dĩ là một cầu vồng của sắc màu. Từ màu đỏ lấp lánh hạnh phúc đến màu tím thẫm ác liệt. Những đôi lứa như các bạn đang chìm đắm trong tình yêu lãng mạn cần ý thức những sắc thái khác nhau của nó. Một vài lĩnh vực của đời sống gia đình đòi hỏi sự uyển chuyển của cơ bắp. Vài lĩnh vực khác lại đòi hỏi chúng ta phải thực tế đến tận cùng. Còn một số lĩnh vực khiến chúng ta tập trung cảm nhận đạo đức và tâm linh. Vì thế, biết được một số nhân tố cơ bản trong hôn nhân, các đôi lứa có thể ứng xử không những với một chút lãng mạn mà còn với một lượng thực tiễn lớn nữa.
Quyển sách này nhằm viết cho các bạn là những người sắp sửa bước vào cuộc sống gia đình. Tác giả tin rằng một sự trình bày trong sáng, thực tế về những phương diện khác nhau của mối tương quan này sẽ ích lợi hơn là những mỹ từ hay lời khuyên ẩn ý chỉ đem đến sự thích thú nhưng không cung cấp những thông tin cần thiết.
Quyển sách khởi sự với tấm lòng mong muốn kết hôn và kết thúc với sự xác nhận liên tục của tình yêu đối với mái ấm gia đình được chính DCT, Đấng thiết lập hôn nhân và xây dựng gia đình hướng dẫn và điều hành.
Thế là các bạn sắp kết hôn. Mong ước quyển sách này sẽ hỗ trợ cho các bạn.
Evelyn M. Feliciano
Mục Lục
- Lời giới thiệu
- Tôi Đồng Ý
- Tuần Trăng Mật
- Cùng Nhau Chung Sống Trọn Đời
- Vai Trò Người Chồng
- Vai Trò Người Vợ
- Vấn Nạn Tiền Bạc
- Một Tá Hay Hai
- Kỷ Luật Con Cái.Lẫn Cha Mẹ
- Sự Hiện Diện Của DCT Trong Gia Đình
- Chúa Jêsus Sống Ở Đây
ĐÍNH ƯỚC!
Ông Poonen đã gọi thời kỳ đính hôn là sự “đếm ngược” trước khi đến ngày cưới. Đây là những tháng ngày thú vị ngay trước khi bước vào hôn nhân. Đôi lứa theo nghi lễ hay không theo nghi lễ tuyên bố rằng họ chính thức thuộc về nhau. Để bảo đảm cho tình yêu, chàng trai có thể tặng cho người yêu của mình chiếc nhẫn đính hôn như một dấu ấn rằng cô đã thuộc về chàng. Tuy nhiên, thật thú vị khi ta để ý thấy rằng nhẫn đính hôn thường được các chàng trai tặng cho bạn gái sau khi các cô nói “đồng ý” mà chưa hề xác định ngày cưới. Do đó, thời gian đính hôn chỉ mang ý nghĩa một sự công bố chính thức mà thôi. Đây cũng là thời gian để làm quen với gia đình và họ hàng của cả đôi bên. Thời kỳ để hoạch định và chuẩn bị. Thời kỳ mà tình cảm và cảm xúc dâng cao.
Câu hỏi thường được nêu lên là: “Nên đính hôn trong bao lâu?” Lâu đủ để chuẩn bị kỹ lưỡng cho hôn nhân, gồm có về mặt vật chất, thể chất và tinh thần. “Đính hôn nhằm giúp chuyển tiếp từ tình trạng độc thân tương đối vô trách nhiệm đến sự tận hiến có trách nhiệm trong hôn nhân. Đây là thời kỳ đặc biệt dành để sắp xếp và thử thách” (D.H. Small, Mô Hình Cho Hôn Nhân Cơ Đốc, trang 201)
Nếu trước đây đã có thời gian tìm hiểu, quen biết và nhận xét thì không cần đính hôn lâu. Nhiều quyển sách khuyên khoảng từ sáu tháng đến một năm, chứ không nên kéo dài hơn.
Trên quan điểm thực tế và tình cảm, đính hôn kéo dài hoặc bị kéo dài là thiếu khôn ngoan. Đối với hai người yêu nhau tha thiết, thời gian chờ đợi nếu không cần thiết rất khó chịu đựng. Nếu có những lý do chính đáng để trì hoãn như đau ốm thình lình hoặc chưa đủ tài chánh, điều ấy có thể biện minh được. Nhưng một chàng trai thất nghiệp mà đề nghị thành hôn với lời hứa hẹn chỉ là mối tình mang theo, ngoài ra không có gì cả, thì hơi xử ép với người yêu của mình.
Nếu đính hôn là thời gian để trù tính, thì chúng ta trù tính cái gì và với ai?
Hãy trả lời câu sau trước. Tốt nhất là nên bàn bạc với nhau. Nên nhớ đây là lễ cưới của các bạn, cả hai bạn. Bàn thảo và chuẩn bị sẽ giúp cả hai thấy được điều gì sẽ xảy ra. Các bạn sẽ khám phá ra rằng với con số 1001 điều phải suy tính, hôn nhân không phải chỉ toàn ánh trăng và hoa hồng. Nó đòi hỏi phải tận lực, cùng nhau làm việc, kiên trì và tự chủ. Nó cũng đòi hỏi phải có tiền nữa.
Hãy xin ý kiến cha mẹ. Họ là những người đầu tiên sẵn sàng làm bất cứ việc gì để ngày cưới của các bạn là một dịp tiện vui vẻ. Lời khuyên của họ sẽ rất có giá trị khi các bạn bàn thảo. Ngoài ra, họ cũng cần được an tâm rằng các bạn cần họ giúp đỡ và các bạn không hề có ý định gạt họ ra bên lề.
Hãy trở lại với câu hỏi thứ nhất: Cần phải trù tính điều gì với nhau? Tất nhiên, ý nghĩ đầu tiên đến với hai bạn là khi nào thì đám cưới? Tháng 12, tháng 6 hay tháng 9? Một điều rất thực tế cần chú ý khi định ngày là chu kỳ kinh nguyệt của cô gái. Vì thế cô nên đề nghị ngày đám cưới.
Đám cưới ở đâu?
Người thì tổ chức đám cưới ở trong vườn, ở nhà, bên bể bơi, tại uỷ ban và có người còn cưới ở dưới nước. Đối với CDN, một đám cưới ở nhà thờ luôn luôn đẹp và ý nghĩa. Chúng ta tôn vinh Chúa bằng cách đưa nhau đến nhà Ngài xin Chúa chúc phước và thừa nhận cuộc sống có nhau. Một đám cưới ở nhà thờ có thể là cách để làm chứng cho bạn bè, thân bằng quyến thuộc chưa tin Chúa khi họ đến chia vui với chúng ta.
Bạn có thể chi phí đến bao nhiêu?
Có ai trong chúng ta lại không muốn đám cưới của mình trọng thể, linh đình? Nhưng linh đình, trọng thể không đồng nghĩa với phô trương và cầu kỳ. Cả hai phải thực tiễn để biết được túi tiền của mình có thể chi đến đâu (nhất là chú rể).
Hình thức đám cưới các bạn trù tính, số người thân và bạn bè các bạn mời, kể cả những người không mời cũng đến sẽ quyết định số tiền phải chi. Trong vòng con cái Chúa, đã nhanh chóng hình thành phương thức đóng góp chi phí. Một số phụ huynh (của cô dâu) tình nguyện đóng góp và việc này giúp cho chú rể không ít.
Ai sẽ tham dự?
Một số người rất thân thiết và chúng ta muốn họ cùng chia xẻ hạnh phúc của chúng ta trong ngày cưới. Việc chọn vị mục sư hoặc các vị mục sư, người đỡ đầu, người tham dự vv…phải dựa trên căn bản tình cảm của họ đối với chúng ta chứ không phải trên tiếng tăm, ảnh hưởng hoặc sự giàu có của họ. Người “đỡ đầu” phải được chọn lựa vô cùng cẩn thận. Trong văn hóa Philippine, họ là cha mẹ tinh thần, vì thế họ phải có phẩm cách. Họ phải là những người không những chỉ chứng kiến sự hợp pháp của cuộc hôn nhân, nhưng là người sẽ tiếp tục cầu thay cho chúng ta dù tiếng chuông báo hiệu hôn lễ đã kết thúc từ lâu.
Các bạn sẽ hưởng tuần trăng mật ở đâu?
Sau đám cưới, các bạn sẽ thích có một thế giới riêng tư để vui vẻ với nhau ít nhất là trong những ngày đầu của cuộc sống. Đừng quên bàn bạc về chuyện này. Hai, ba tuần trước ngày cưới, nên giữ chỗ trước và chuẩn bị chu đáo. Các bạn không cần phải đi Hong Kong hay Baguio để hưởng tuần trăng mật. Điều cơ bản mà các bạn cần là sự riêng tư và thoải mái để tự do sống với nhau. Một căn nhà nhỏ trên núi hoặc một túp lều bên bãi biển gần nơi bạn ở cũng được rồi.
Sau đó các bạn sẽ ở đâu?
Các bạn sẽ mướn nhà, xây nhà riêng hay ở chung với một trong hai bên cha mẹ? Đôi khi điều này lại trở thành một vấn đề. Sợ phải bươn chải trên sức mình, các bạn chọn cuộc sống dễ chịu hơn, đó là ở với cha mẹ. Lời Kinh Thánh bàn về vấn đề hôn nhân như sau: “Người nam phải lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt” (Sa 2:24). Và dường như cũng không có chỗ nào khuyên các bạn nên sống với cha mẹ vợ cả.
Rey phân vân giữa việc nên hay không nên lìa cha mẹ. Anh sắp sửa kết hôn với Nora, nhưng vì là con một của cha mẹ lớn tuổi, anh cảm thấy nên sống chung với họ sau khi kết hôn. Anh nói chuyện này với Nora. Cả hai cùng nhận thấy sự cần thiết của việc sống độc
lập, nhưng đồng thời cũng nhận thấy bổn phận của mình đối với cha mẹ. Với sự cảm thông sâu xa, Nora đồng ý sống chung tạm thời với bố mẹ của Rey cho đến khi cả hai có thể mướn được nhà trong thành phố nơi họ làm việc. Mọi sự đều suôn sẻ với họ.
Khi các bạn suy tính, nên chuẩn bị. Chuẩn bị chính mình cho cuộc sống gia đình. Phải biết rõ các bạn được thông tin đầy đủ về vai trò tính dục của người chồng, hay người vợ. Đừng dựa trên những câu chuyện tếu lâm mình nghe được từ bạn bè cũng chẳng biết gì như mình, hoặc đọc trong những chuyện khôi hài hay tiểu thuyết. Nhưng thay vào đó, nên cố gắng tìm những tài liệu thông tin chính xác từ những tác giả đứng đắn. Bạn sẽ tìm được một số sách hoặc tiểu phẩm liệt kê ở cuối sách. Hãy làm sáng tỏ những điều các bạn đọc bằng cách trao đổi với những tín hữu trưởng thành đã lập gia đình, nên là những người cùng giới thì tốt hơn. Riêng các bạn nam luôn luôn có thể hỏi vị mục sư của mình. Vợ của các mục sư cũng nên trang bị kiến thức về vấn đề này để giúp các thanh nữ nhút nhát, e thẹn, kín đáo vốn ngại nói về đề tài tính dục.
Các bạn nên đi khám sức khỏe như một thủ tục. Các bạn có thể cùng đi hoặc đi riêng nếu cảm thấy sự có mặt của người kia là bất tiện. Nếu có bác sĩ là tín hữu trong khu vực của bạn thì sẽ dễ thông cảm và hiểu biết hơn. Nếu không thì bác sĩ của gia đình hoặc bác sĩ của bệnh viện cũng được. Bác sĩ sẽ giúp bạn hiểu tốt hơn về khía cạnh thể chất trong hôn nhân.
Các bạn có thể hỏi: “Sao lại phải đi khám sức khỏe?” “Tôi khỏe mà”, có thể bạn nghĩ như thế. “Và hơn nữa, khám ngượng chết đi được.”
Một giấy chứng nhận sức khỏe tốt chẳng lấy mất cái gì nơi bạn. Nếu cả hai bạn cùng khỏe, điều này sẽ giúp các bạn an tâm và hạnh phúc. Nếu một trong hai, hoặc cả hai có bệnh gì đó, thì các bạn có đủ thì giờ để chữa trị. Còn nếu là bệnh nghiêm trọng, các bạn có thể dời ngày cưới chờ cho khỏe hẳn. Còn nếu không chờ được thì ít nhất các bạn cũng bước vào cuộc sống lứa đôi với ý thức về bệnh tật của mình. Nếu bệnh không thể chữa được và các bạn vẫn tin rằng Chúa muốn các bạn sống với nhau, thì sẽ không có hối tiếc về sau.
Sức khỏe là tài sản thiết yếu mà bạn mang theo vào hôn nhân. Các đôi lứa mạnh khỏe thường có tâm tính vui vẻ hơn và cái nhìn lạc quan hơn vào cuộc sống. Người phụ nữ nên nhớ rằng mình sẽ sinh con và sức khỏe của con cái lúc mới sinh tùy thuộc nơi người mẹ. Người chồng là người kiếm tiền nuôi sống gia đình cần có sức khỏe cường tráng.
Đính hôn là thời gian để suy tính, chuẩn bị và cũng để cầu nguyện nữa. Tất nhiên, các bạn đã cùng nhau cầu nguyện lâu rồi. Nhưng lúc này những lời cầu nguyện của các bạn đặc biệt hơn và có mục tiêu rõ ràng. Hãy dâng lên Chúa từng chi tiết trong đám cưới của các bạn, sự chuẩn bị, những vấn đề dường như sẽ gặp và một lô những vấn đề khác. Cũng không sớm lắm đâu khi các bạn chia sẻ kinh nghiệm về sự hiệp một trong tâm hồn, tâm trí và tâm linh. Một cuộc hôn nhân được vun đắp bằng những lời cầu nguyện và nhận định chân thực về những khó khăn trong cuộc sống sẽ làm dịu bớt những thăng trầm trong đời sống. Chúng ta cũng cần luôn nhớ rằng DCT muốn và vui thích đáp lời cầu xin của con cái Ngài, thế thì đừng ngần ngại trao cho Ngài mọi sự.
Chúng ta sẽ chấm dứt phần nói về đính hôn bằng một câu của tác giả Poonen: “Đính hôn không phải là giấy chứng nhận cho phép quan hệ tình dục. Có một thời kỳ cho mỗi vấn đề. Có thời ôm ấp và có thời hạn chế việc ôm ấp (Tr 3:5). Thời kỳ ôm ấp là sau hôn lễ. Hãy kiên nhẫn, các bạn sẽ thấy đời sống gia đình thú vị hơn nhiều, vì sẽ không có hối tiếc gì trong hôn nhân. Khi một cặp thanh niên nam nữ khởi sự âu yếm nhau trước hôn lễ, họ đã tạo ra khả năng làm hỏng mối tương giao cá nhân, những căng thẳng tình cảm gia tăng, cầu nguyện chung không thực hiện được (vì bận âu yếm nhau) và có nguy cơ tiến đến quan hệ tình dục với nhau trước khi lập gia đình.
Khả năng hồi hôn cũng phải dự trù trong trí các bạn. Nếu âu yếm nhau quá mức, khi cuộc đính hôn tan vỡ, cô gái sẽ tiếc nuối vì đã để cho chàng trai sử dụng thân thể mình.” (Zac Poonen: Tình Dục, Tình Yêu Và Hôn Nhân, trang 107)
Thế thì chúng ta hãy nhớ rằng thời kỳ đính hôn vẫn còn nằm ngoài phạm vi hôn nhân. Nếu cho rằng các cặp đính hôn có thể bắt đầu những giây phút thân mật thể xác vì chẳng bao lâu nữa họ sẽ kết hôn là đi trước kế hoạch hạnh phúc của DCT. Chúng ta có thể phá vỡ mọi sự vì quá nôn nóng không đúng lúc.
TÔI ĐỒNG Ý
Bùng lên sự hối hả sau cùng. Rồi thì tiếng đàn organ trổi lên. Cô dâu rạng rỡ, đứng lại trước cửa nhà thờ, chờ cho đoàn người theo sau bước tới. Ông thân của cô trang trọng trong bộ lễ phục truyền thống lặng lẽ lục tìm khăn mùi soa để lau cặp kính gọng thép. “Chói mắt quá”, vừa lau mắt ông vừa nói bâng quơ. Thật ra ông cảm thấy mắt mình hơi ướt. Bên trong nhà thờ, trên hàng ghế đầu, thân mẫu của cô dâu đang sụt sùi lớn tiếng. Bà không thể nín được, “Cô con gái bé bỏng” của bà đang xa rời bà. Vừa nghĩ đến đây bà càng xì mũi to hơn. Một trong số các con trai đã lập gia đình của bà, huých khuỷu tay bà và thầm thì: “Mẹ ơi, thôi đủ rồi!”
Rồi hợp âm quen thuộc vang lên. Mọi người đứng dậy. Cô dâu khoan thai bước vào, xinh xắn mĩm cười phía sau tấm voan che mặt. Chú rể khoác tay cô, nghiêm trang dìu cô đến trước bục lễ. Người cha lặng lẽ ngồi xuống và ông Mục sư bắt đầu giới thiệu hôn lễ.
Người ta mang nhiều tâm trạng lẫn lộn trong hôn lễ. Nước mắt hòa lẫn với những nụ cười sung sướng…thoang thoáng một nỗi lo và chút sợ hãi. Có một cảm giác mất mát cũng như niềm vui được thêm cộng với niềm hưng phấn khi tưởng đến tương lai. Chính ra đây là giờ phút cao điểm nhất trong cuộc đời không chỉ riêng với cô dâu, là người được chúng ta chú ý triệt để, mà cũng của chú rể đang đứng đợi bên bục lễ.
Dầu vậy, xin chúng ta nhớ rằng hôn lễ chỉ mới là khởi đầu của hôn nhân. Đó là đỉnh điểm của giai đoạn tìm hiểu (dù sau hôn lễ vẫn tiếp tục tìm hiểu) nhưng chính là điểm khởi đầu của cuộc sống gia đình. Vì thế chúng ta không nên dồn tất cả tàn lực vào hôn lễ, vì phía trước vẫn còn một chặng đường dài đòi hỏi sự chuẩn bị của chúng ta nữa.
Một đám cưới lớn không bảo đảm cho hạnh phúc trong hôn nhân. Dù đây là dịp trọng đại, nhưng tín hữu không nên thổi phồng cách không cần thiết. Người Phi Luật Tân có khuynh hướng chạy đua với nhau để tỏ ra hào phóng, xa hoa trong các đám cưới. Về phần tín hữu Cơ Đốc cũng thấy khó đứng ngoài cuộc. Chúng ta bày tỏ điều đó qua chiếc áo cưới cầu kỳ của cô dâu, qua số lượng phù dâu phù rể và lắm khi qua những bộ lễ phục dường như không phù hợp lắm nhưng lại rất đắt tiền của chú rể.
Dĩ nhiên mỗi người có quyền tự do lựa chọn bộ cánh của riêng mình để mặc trong ngày cưới. Chúng tôi chỉ nêu lên lời kêu gọi xin các bạn chú ý đến sự thích hợp và ý thức thực tế mà thôi. Có lần, tác giả được mời đến dự một đám cưới ở vùng xa. Toàn bộ buổi lễ diễn ra đơn giản, dễ thương như những đám cưới trong Chúa, chỉ có điều tất cả những người nam tham dự đều mặc áo khoác. Trời thì nóng như thiêu trong ánh mặt trời ba giờ chiều. Họ chịu đựng cái nóng kinh người cho đến khi tan lễ. Và điều đáng nói là họ đã lạc lỏng trong trang phục ấy giữa vùng quê yên tĩnh.
Một cô dâu Cơ Đốc nên xinh xắn nhưng đừng trang điểm thái quá khiến chú rể hoang mang không biết người con gái đang bước kia có phải là người anh đã cầu hôn hay không. Khiếp đảm lắm khi nhìn một cô dâu phấn son lòe loẹt, với đôi mắt có nhiều tầng mascara như cầu vồng. Đừng để cho những chuyên gia trang điểm làm cho mình thành
diễn viên hát tuồng cốt để lấy tiền của bạn mặc kệ bạn trông ra sao. Hãy trang điểm đơn sơ và vừa phải thôi.
Điều khiến chúng ta muốn gây ấn tượng trên người khác không dừng lại ở áo quần. Chúng ta còn bày tỏ qua cách chuẩn bị thức ăn rất lãng phí. Một lần nữa, chúng ta lại để cho tinh thần tiêu biểu rất Philippine điều khiển mình. Thay vì để cho khả năng tài chánh quyết định phải chọn thức ăn như thế nào, chúng ta để cho sĩ diện làm chủ tình hình. Dịp như thế này sẽ có nhiều người đến dự, nhất là bà con. Chúng ta e rằng sẽ vô cùng thất lễ nếu chỉ đãi họ bằng những thức ăn bình thường. Và thế là chú rể vốn đã quá tải phải cố tìm cách xoay sở cho dù phải mang nợ. Chúng ta không nên làm thế.
Một nguyên tắt tốt mà các đôi lứa Cơ Đốc nên đem theo vào hôn nhân là không bao giờ nên sống vượt quá khả năng tài chánh cho phép. Nên tránh đừng để mang nợ trước hoặc sau đám cưới. Mang nợ vì làm đám cưới không phải là một gương tốt của Cơ Đốc Nhân. Ngoài ra, nợ nần sẽ gây khó khăn cho các bạn trong những ngày đầu chung sống, khi chủ nợ đến tìm mà bạn không có gì để trả cho họ cả.
Hoang phí, lãng phí không phải là dấu hiệu của CDN chân chính, mang công mắc nợ cũng thế.
Sau cùng, tín hữu Cơ Đốc cần nhận ra rằng đám cưới không phải chỉ là áo cưới nhập ngoại đắt tiền và những bữa tiệc sang trọng. Theo Tiến sĩ Ruth Smith thì “đám cưới của một đôi lứa Cơ Đốc là sự hứa nguyện trước Chúa và trước Hội Thánh một cách công khai rằng sẽ chung sống trọn đời theo ý Chúa. Nhưng cung cách sống hoang phí trước và trong hôn lễ chỉ phản ảnh cuộc sống sau ngày cưới mà thôi. Tình trạng suy sụp bất ổn ở một chừng mực nào đó sau tuần trăng mật có thể phát sinh do quá chú trọng vào chi tiết của hôn lễ. Kinh Thánh đề cập nhiều đến hôn nhân hơn là hôn lễ.” (Ruth Smith: “Hôn Lễ của chúng ta có mang tinh thần Cơ Đốc hay không?”)
Chúng ta cũng cẩn thận chú ý đến những phần âm nhạc trong chương trình hôn lễ có phù hợp với đức tin Cơ Đốc hay không. Vì là một sự hứa nguyện công khai trước Chúa, nên từng chi tiết phải góp thêm sự trang trọng và thánh khiết vào biến cố này. Chúng ta phải biết rõ rằng bài hát, hoặc hát đều nói lên được điều chúng ta muốn tỏ bày lên Chúa trong ngày trọng đại ấy. Có nhiều bài Thánh ca có ý nghĩa, chúng ta có thể chọn để hát với lòng ước mong đem chúng ta đến gần với ngôi ơn phước của Chúa, bạn bè và những người dự lễ cũng cùng tâm trạng như vậy.
Xin hãy tổ chức hôn lễ theo tinh thần của Thánh Kinh.
TUẦN TRĂNG MẬT
Tuần trăng mật là thời kỳ để ôm ấp, để khám phá, để uống thỏa thích từ nguồn mạch và để vui vẻ với vợ cưới lúc xuân thì (Ch 5:18). Lần giao hòa thân xác đầu tiên là dấu ấn không thể quên được trong đời sống liên hiệp mà chỉ có cái chết mới có thể chia lìa. Sự thỏa mãn thân xác và tình cảm làm cho cả hai cảm nhận sự đầy trọn của con người mình. Đối với con cái Chúa, hành vi tính dục được nâng lên vị trí cao của sự kỳ diệu tinh thần.
Dầu vậy, không phải ai ở trong tuần trăng mật đều ở chín tầng mây. Có những người thấy thất bại, thấy vỡ mộng so với những gì họ tưởng tượng trước đây.
Một người bạn tín hữu lập gia đình một vài năm, thuật lại cảm giác cũng như phương thức cô phản ứng lại chồng trong tuần lễ đầu chung sống như sau: “Chiều nào tôi cũng sợ hết. Tôi thấy đau khắp mình mẩy, buồn nôn, bao tử thì quặn thắt còn cái đầu thì quay cuồng. Mỗi lần vào nhà tắm là tôi ở trong đó thật lâu. Tôi thật là khờ, toàn bộ sự việc thật là một thử thách đối với nhà tôi. Tôi rất vui vì nhà tôi là người kiên nhẫn. Bà biết không, tôi lập gia đình mà không biết tí gì về tình dục cả. Chỉ nghĩ đến chuyện ấy thôi là tôi đã thấy kinh khủng rồi.”
Một thiếu nữ khác sau khi hưởng tuần trăng mật trở về vẫn còn trinh nguyên chưa được chồng đụng tới. Cô cho biết cô đi ngủ với một lô quần sọt trên người. Tận trong thâm tâm cô rất muốn cho chồng nhưng cô không thể. Cái ý tưởng ấy làm cô sợ hãi.
Nói chung, các thiếu nữ Philippine đi đến giường cưới nhưng với sự hiểu biết lệch lạc hoặc không biết tí gì. Chỉ nghĩ đến việc giáo dục về tính dục ở học đường thôi cũng không được những người bảo thủ chấp nhận. Với họ, tính dục là cái gì đó mà bạn không thể nói cách lộ liễu. Và thế là rất nhiều cô dâu lên giường với chồng với một ý niệm hết sức mơ hồ về cái gì sẽ xảy ra giữa họ.
Vì thế rất cần đọc sách có uy tín để có được những thông tin về vấn đề này và mỗi người cần tham khảo từ những tín hữu cùng giới đã có gia đình. Khi đó họ có thể hỏi những câu hỏi rất cá nhân mà cho dù có ở giữa một nhóm người cùng giới, họ cũng không dám hé răng.
Vấn đề đáng tiếc ở đây là có rất ít người có đủ can đảm hỏi và có ít người đã có gia đình có kinh nghiệm muốn trả lời thẳng thắn vào câu hỏi đặt ra cho họ. Thiêng liêng hóa cái khái niệm về sự giao hợp thật sự chẳng giúp được gì cho những thanh niên nam nữ muốn biết rõ sự kiện.
Nói một cách đơn giản là như thế này: Chúng ta học ở trường rằng nếu muốn làm một bài văn, hay bài giảng, thì chúng ta cần phải chia làm ba phần: mở đầu, thân bài và kết luận. Khi người chồng muốn đến gần vợ thì cũng theo qui luật ấy. Chúng ta sẽ đề cập đến các phần riêng rẽ.
- Phần mở đầu hoặc có thể gọi là phần kích thích, khởi động. Một người chồng cần hiểu rằng vợ mình cần phải được kích thích để đưa đến sự hòa hợp thể xác, cần có thời gian. Cô ấy không dễ bị kích thích như chồng. Cô ấy cần được sờ mó, hôn hít, vuốt ve và mơn trớn để khơi dậy trong cô một khao khát được giao hoan. Một vài bộ phận trong cơ thể người phụ nữ được DCT tạo dựng rất nhạy với mục đích này. Đó là những phần mà chúng ta gọi là vùng Vuốt ve, âu yếm những nơi này sẽ khiến người vợ bị kích thích cho đến khi ước ao muốn được chồng chiếm hữu. Một vài vùng đó là cổ, gáy, ngực, nhất là núm vú và mông và phần nhạy cảm nhất là vùng nằm ở phía trên âm hộ.
Người chồng phải luôn luôn tỏ ra nhẹ nhàng, dịu dàng và giàu tưởng tượng trong khi âu yếm vợ. Không gì có thể làm cho người vợ chán ngán, mất hứng thú thể xác hơn là ước muốn chiếm hữu cách vô tâm, thô bạo, nhanh chóng cho xong rồi kết thúc.
Khi âu yếm, mơn trớn như vậy, người vợ sẽ cảm thấy âm hộ mình ướt một chất nhầy có tác dụng làm cho trơn khiến chồng dễ đưa dương vật vào và ít đau hơn. Đây cũng lại là một trong những dự liệu của DCT. Khi ước muốn của người vợ mạnh hơn, cô sẽ thật sự muốn có sự giao hợp mà chúng ta sẽ gọi là thân bài.
2. Thân bài, chúng ta có thể nói như thế này: chồng đưa dương vật, lúc này đã cương cứng lên, vào trong âm hộ vợ. Lần đầu tiên thì cô dâu mới sẽ cảm thấy đau chút ít vì màng trinh nhằm bảo vệ đường vào âm hộ bị rách. Người chồng phải nhẹ nhàng từ từ cho đến khi đưa trọn dương vật vào trong. Sau đó, chồng nhúch nhích dương vật tới lui, ra vào. Người vợ cũng cùng đáp ứng bằng cách lắc mông qua lại hoặc đưa mông lên xuống. Sau vài phút cả hai sẽ đạt đến đỉnh điểm. Người chồng sẽ tuôn ra một chất dịch vào trong cơ thể vợ, điều đó khiến người chồng đạt được khoái cảm tột cùng. Trong khi đó, người vợ cảm nhận được cái ngây ngất của thân xác. Hebert J. Miles diễn tả trong quyển “Hạnh phúc tình dục trong hôn nhân như sau: “Đó thật là một sự nổ tung các cơ bắp, một khoái cảm tột độ của âm vật, âm hộ và toàn thân từ đầu tới chân.”
Khoái cảm của vợ chồng có thể đến cùng một lúc hoặc kẻ trước người sau. Nếu luôn tới cùng lúc với nhau thì thật là tuyệt vời. Nhưng thường thì không được như thế. Người vợ thường chậm hơn sau đó một chút. Một người chồng hiểu biết sẽ không rút dương vật mình ra (dù lúc này nó đã mềm rồi), vẫn tiếp tục rờ âm vật của vợ cho đến khi cô ấy cũng đạt đến khoái cảm như mình.
3. Kết luận, là phần âu yếm sau đó mà người vợ cần hơn người chồng. Vì cớ chồng đã mơn trớn, vuốt ve rồi chiếm đoạt được nàng nên người chồng cần tỏ ra sung sướng cám ơn vợ bằng những cái ôm siết, hôn và thì thầm những lời âu yếm sau đó. Một diễn giả có tài không bao giờ chấm dứt bài nói chuyện đột ngột, nhưng ông ta tóm lược những điểm mấu chốt. Người vợ thường nhận được những lời khen ngợi rằng cô rất quí giá đối với chồng trong những phút giây tâm sự này.
Điều cơ bản hơn cả là việc hợp nhất trong những động tác giao hoan là không khí yêu thương, sự quan tâm dịu dàng dành cho nhau và sự hiến dâng chính mình cho người yêu dấu. Càng có kinh nghiệm, bạn sẽ càng sáng tạo ra những kỹ thuật của riêng mình và bạn sẽ nhận ra rằng những năm về sau càng ngọt ngào hơn những năm đầu nữa.
Tất nhiên, các đôi lứa sẽ gặp va vấp, lúng túng trong những tháng đầu tiên của hôn nhân. Nhưng đừng để điều đó làm mình nản chí. Đây là lúc cần có sự trao đổi hai chiều cách thoải mái. Vì tình dục rất quan yếu trong hôn nhân, cả hai cần bày tỏ công khai những suy nghĩ, khó khăn trong cảm xúc của riêng mình.
Nếu người vợ thấy mình không thỏa mãn hoặc cần kích thích nhiều hơn nữa, cô ấy phải nói ra. Cô đừng e ngại chỉ cho chồng phần thân thể nào chồng cần mơn trớn hoặc vị trí nằm nào cô thích. Người chồng cũng thế, cần tỏ cho vợ biết cái gì làm mình khó chịu. Cả hai cần liên tục khám phá và động viên nhau trong mối quan hệ này hoặc trong những khía cạnh khác cũng vậy. Một cuộc sống tình dục hạnh phúc là một yếu tố lớn trong cuộc hôn nhân thành công. Các cặp vợ chồng không nên tỏ ra mọi sự tốt đẹp trong khi sự thật trái lại.
Một quyển sách viết rất trung thực, thẳng thắn trên quan điểm Cơ Đốc về đề tài này là: “Hạnh phúc tình dục trong hôn nhân” của Tiến sĩ Herbert J. Miles. Chúng tôi xin giới thiệu quyển sách này cho các bạn sắp lập gia đình.
CÙNG NHAU CHUNG SỐNG TRỌN ĐỜI
Ai là người đã đặt ra câu thành ngữ “hãy ở với nhau cách hòa thuận” khi ám chỉ về hôn nhân chắc hẳn phải vừa nói đùa vừa mỉa mai. Chúng ta nhận biết rằng một số hôn nhân thật sự là những chiến trường. Còn những cuộc hôn nhân khác thì ở trong tình trạng ngừng bắn khó thở. Dường như những người còn ở lại với nhau là những người biết xấu hổ, có tư cách và do sự ràng buộc của con cái. Nhưng đôi khi, tình yêu chẳng còn nữa.
Những cặp vợ chồng Cơ Đốc cũng đang ở trong mối nguy hiểm tương tự. Họ không được miễn trừ khỏi sự căng thẳng và xung đột của đời sống hôn nhân. Hôn nhân của họ không phải tự nhiên mà trở thành hạnh phúc hoặc hài hòa, hay tràn đầy tình yêu thương vì sức mạnh của từ ngữ “Cơ Đốc Nhân”. Có nhiều lúc đau đớn sâu xa, đầm đìa nước mắt và sự chán ghét rồi chúng ta tự hỏi chẳng biết còn gì đáng sống hay không.
Những nan đề và những điều phiền muộn trong hôn nhân xuất phát từ nhiều nguồn gốc. Chúng tôi muốn nói đến ba nguyên nhân trong những nguyên nhân này: 1) Những cặp vợ chồng lập gia đình nhưng không hiểu biết rõ ràng hôn nhân là gì, 2) người chồng và người vợ mặc lấy địa vị mới mà không biết vai trò của mình là gì 3) Những cặp vợ chồng có khuynh hướng không quan tâm đến Đức Chúa Trời trong đời sống hôn nhân.
Hôn nhân là gì? Lời mô tả rõ ràng nhất về hôn nhân nằm trong lời hứa nguyện của ngày cưới. Suy gẫm những lời hứa nguyện này và xem lại mối quan hệ giữa hai người trước ngày cưới là điều rất ích lợi.
Hôn nhân là một sự hứa nguyện. Trước hết, đó là một sự hứa nguyện yêu nhau. Nhiều khi trong phạm vi thân mật của đời sống hôn nhân, yêu thương nhau thật chẳng dễ dàng chút nào. Có những giây phút bạn cảm thấy ghét hơn là yêu thương vợ hoặc chồng của mình. Những đòi hỏi vô lý, ích kỷ, vô tâm không có khuynh hướng giúp cho chúng ta được yêu. Có lẽ vì lý do này mà chúng ta phải hứa nguyện yêu nhau. Loại tình yêu này vượt quá tình cảm bình thường của chúng ta. Phải để cho tình yêu của Đấng Christ chiếm hữu chúng ta, là Đấng khi chúng ta còn là những tội nhân và cố ý chống đối Ngài, Ngài vẫn yêu bằng cách chết thay cho chúng ta. “Tình yêu mặc dầu” phong phú này phải là đặc điểm của mỗi cuộc hôn nhân Cơ Đốc.
Kinh Thánh răn dạy rằng: “Hỡi người làm chồng, hãy yêu vợ mình như Đấng Christ đã yêu Hội Thánh và phó chính mình vì Hội Thánh…Người nam phải yêu vợ mình như chính thân mình. Người nào yêu vợ mình là yêu chính mình vậy.”
Về phía người vợ, cô ta bày tỏ tình yêu của mình bằng sự thuận phục. “Yêu là đầu phục theo ý muốn của Ngài”, thế là ca khúc quen thuộc trổi lên. Và ý muốn của Ngài là người vợ phải bày tỏ lòng yêu thương chồng bằng cách thuận phục chồng như thuận phục Chúa, hoàn toàn thuận phục giống y như Hội Thánh thuận phục chính mình cho Đấng Christ. (Eph 5:22,24)
Đối với hầu hết phụ nữ, sự thuận phục được hòa điệu cách dễ dàng trước ngày cưới hơn là những ngày sau đó. Một cô gái đã sống từ 20 đến 25 năm trong sự cưng chìu, muốn gì được nấy sẽ không sẵn sàng thuận phục một uy quyền được gọi là “chồng”.
Bằng cách này hay cách khác, đôi khi chúng ta cảm thấy DCT không công bình đối với phụ nữ; đặt chúng ta dưới người khác như thử chúng ta thấp kém hơn hoặc không biết tự quyết định. Để trình bày đầy đủ về điểm này, thật ra DCT không thiết lập định chế hôn nhân để bày tỏ sự ngang bằng giữa người nam và người nữ. Ngài đã thiết lập hôn nhân để bày tỏ sự bù trừ giữa hai tạo vật ưu mỹ nhất của Ngài.
Thứ hai, hôn nhân được hứa nguyện để an ủi. Con người cần được tái thừa nhận và an ủi. Trong sự cô đơn của Ađam, DCT đã ban Êva để an ủi ông. Và đặc biệt là sau Sự Sa Ngã, họ phải thường xuyên an ủi lẫn nhau.
Thế giới này thật tàn nhẫn và vô tình. Chúng ta đã bị xấu hổ, bị tổn thương hoặc đã bị thất bại. Thật tuyệt vời biết bao khi bạn có thể chạy trở về với mái ấm nồng nàn và ngã vào vòng tay yêu thương của vợ hoặc chồng để được vỗ về “dầu sao đi nữa, anh vẫn luôn luôn yêu em.”
Thứ ba, hôn nhân được hứa nguyện để tôn trọng. Phải hứa nguyện như thế vì sự tôn trọng lẫn nhau đã bị lạc mất trong quan hệ mỗi ngày của thế giới nhàm chán này. Làm ra vẻ ta đây, la hét, xấc xược, đá cửa thì dễ dàng hơn là nói “thôi mà”, “cám ơn em”, “ô, chào em” hay “anh xin lỗi, xin hãy tha thứ cho anh.”
Sự tôn trọng và thái độ đàng hoàng mà người bạn đời dành cho chúng ta sẽ khiến chúng ta trở thành những người mạnh mẽ và tốt đẹp hơn. Đó là một cảm hứng khi nghĩ rằng ít nhất cũng có một người xem chúng ta là cao trọng và sẵn lòng giao phó đời sống của cô ấy hoặc anh ấy cho ta. Với suy nghĩ ấy, chúng ta càng được chuẩn bị hơn cho những cơn khủng hoảng của cuộc đời.
Thứ tư, hôn nhân là một sự hứa nguyện để mãi có nhau trong mọi hoàn cảnh. Khi mạnh khỏe, lúc yếu đau, khi thịnh vượng cũng như lúc nghèo thiếu, đời sống tốt đẹp hơn hoặc tệ hại hơn vẫn ở với nhau cho đến khi kết thúc cuộc đời. Dường như vợ của Gióp đã quên mất lời hứa nguyện hôn nhân này. Vào lúc ông cần bà nhất, bà lại quay vào ông và nói: “Ủa, ông hãy còn bền đỗ trong sự hoàn toàn mình sao? Hãy phỉ báng DCT và chết đi.” Và Gióp đã trả lời bà với một câu nói rất hay: “Ngươi nói như một người đàn bà ngu muội. Ủa sao, sự phước mà tay DCT ban cho chúng ta, chúng ta lãnh lấy, còn sự tai họa mà tay Ngài giáng trên chúng ta, lại chẳng lãnh lấy sao?”
Thứ năm, hôn nhân không hứa hẹn được trưởng thành trong những ngày đầu đầy trữ tình của tuần trăng mật. Thật dễ yêu nhau khi mọi sự đầy màu hồng và tươi sáng. Nhưng những tình cảm mặn mà và sự cảm thông sâu đậm hơn sẽ tăng trưởng trong vùng đất khô cằn của hoạn nạn và thử thách, là khi bạn không còn ai để bám víu ngoài hai bạn với nhau và với Chúa. Tình yêu mà không có sự hi sinh thì không phải là tình yêu thương. Tình yêu thương tối hậu ấy được Đấng Christ bày tỏ trên thập tự giá khi Ngài hi sinh chịu khổ vì cớ nhân loại.
Thứ sáu, hôn nhân được hứa nguyện để chung thủy với nhau. Có nghĩa là từ bỏ mọi người khác mà chỉ trung thành với vợ hoặc chồng của mình mà thôi. Trung thành là điều gì đó còn có ý nghĩa hơn là là sự gần gũi về thể chất hoặc sự hợp nhất trong tình dục. Nó
có nghĩa là một sự pha trộn hài hòa trọn vẹn giữa ý chí, tình cảm và tâm linh như một tổng thể.
Ông Trobisch so sánh hôn nhân với một căn lều có ba cạnh hình tam giác. Theo ông, hôn nhân gồm có sự hợp pháp hay sự kết hôn, sự riêng tư hay tình yêu thương và mặt thể chất hay sự hiệp một trong thân xác. Mỗi lãnh vực đều có ảnh hưởng qua lại với nhau theo sự khẳng định được tươi mới đến mãi mãi là điều làm cho hôn nhân mạnh mẽ.
Ông nói: “Thật ra, hôn nhân là một túp lều để được thông công về mặt thuộc thể. Những người yêu nhau được bảo vệ và được ẩn náu trong đó. Họ được cất khỏi sự sợ hãi, kinh nghiệm sự thỏa lòng vô biên và một cảm nhận về sự bình an thật.
“Cảm nhận về sự bình an này sau đó chuyển thành tình yêu thương. Đó là nền tảng vững chắc cho những thăng trầm của tình cảm và cảm xúc. Trong “túp lều” ấy, kinh nghiệm trở nên một thịt làm cho tình yêu được mạnh mẽ và tăng trưởng. Kinh nghiệm ấy dẫn tình yêu thương đến sự chung thủy và giúp cho tình yêu được bền lâu.”
Và hành động là phản ứng của tình yêu thương. Nơi đâu tình yêu thương được làm cho mạnh mẽ bởi sự hiệp một của thân xác, cùng lúc ấy sự thông công về thuộc thể càng trở nên sâu đậm, có ý nghĩa và quí báu hơn. “Sự hiệp một về thân xác trở thành ‘hành động của tình yêu’ trong hôn nhân với ý nghĩa đầy trọn của chính từ ngữ đó. Qua sự thuận phục lẫn nhau về mặt thể xác, những người yêu nhau cứ ngày càng làm mới lại lời thề ước của họ trong ngày hôn lễ.
Vì thế, Ông Trobisch đi đến một kết luận rất nghiêm trọng:
“Hôn nhân phục vụ cho tình yêu qua những lời khẳng định tươi mới thường xuyên này. Vì lý do đó tình yêu cần hôn nhân y như hôn nhân cần tình yêu vậy. Trong những giờ phút buồn thảm khi tình yêu đang trong nguy cơ bị nguội lạnh dần, vợ chồng phải bám chặt lấy sự kiện họ đã kết hôn và nhắc nhở nhau về những lời hứa nguyện. Họ nên nói với nhau, ‘Dầu gì đi chăng nữa, anh đã cưới em…’. Như thế, hôn nhân trở nên người bảo vệ, là kẻ canh giữ tình yêu thương.”
VAI TRÒ NGƯỜI CHỒNG
Người nam đã lập gia đình thừa nhận một vai trò hai mặt. Anh ta trở thành chồng của vợ mình và do đó trở thành cha của các con mình. Chồng và cha không phải chỉ là những từ ngữ về tình cảm. Kinh Thánh đặt trên mỗi vị trí này những trách nhiệm và những bổn phận rất nghiêm trọng mà không một tín hữu nào có thể lẫn tránh hoặc xem nhẹ.
Chồng là gì và cha là như thế nào?
Có lẽ chúng ta ngạc nhiên khi thấy trong Kinh Thánh DCT đã tự lập chính Ngài là một Khuôn Mẫu Chuẩn cho mỗi bậc làm chồng và làm cha. “Vì chồng ngươi là Đấng đã tạo thành ngươi”, tiên tri Êsai nói lên điều này khi ông cố gắng nhấn mạnh đến tình yêu, sự chăm sóc và bảo vệ của DCT đối với dân tộc Ysơraên lầm lỗi. “Đức Giêhôva đã gọi ngươi, như gọi vợ đã bị bỏ và phiền rầu trong lòng, như vợ cưới lúc còn trẻ và đã bị để, Đức Chúa Trời ngươi phán vậy. Ta đã bỏ ngươi trong một lát; nhưng ta sẽ lấy lòng thương xót cả thể mà thâu ngươi lại.”
Trong bức tranh biểu tượng của DCT với tư cách như người chồng này, sự tận hiến và lòng thương xót của Ngài đối với dân Ysơraên trở thành phẩm chất nổi bật hơn cả. Về mặt lịch sử, chúng ta thấy rằng khi dân Ysơraên không vâng phục DCT, Ngài đã tạo cơ hội để họ được trở về, tha thứ và tiếp nhận họ trong tình yêu thương. Khi dân Ysơraên phải chịu khổ và ở trong sự buồn thảm sâu xa, DCT giang rộng vòng tay và an ủi họ. Rồi khi dân Ysơraên yếu đuối và vô vọng, Đức Giêhôva là Ngọn Tháp sức lực và nơi ẩn náu.
Hẳn nhiên, một người chồng mang bản chất hay chết không thể hoàn hảo trong cách cư xử với vợ. Nhưng người chồng nào lấy Chúa làm mẫu mực cho đời sống mình, bởi ân điển Chúa có thể trở nên rất giống với thái độ và tâm tánh của Ngài. Người làm chồng nên nhớ rằng vợ mình cũng phải trãi qua mọi nỗi đau khổ của nhân loại như những người khác vậy. Cô ta cũng phạm lỗi, cũng nản lòng, và có những khuyết điểm riêng. Đôi khi, cô thật sự không hiểu được chồng muốn điều gì nơi cô và công việc của cô là gì. Cô ta cần được cảm thông và quan tâm. Giả sử cả hai đều thương yêu nhau thì người chồng phải bày tỏ tình yêu ấy trong cách cư xử tử tế và đầy lòng quan tâm đến vợ mình trong đời thường của cuộc sống mỗi ngày. Phierơ nhắc nhở chúng ta qua lời Thánh Kinh: “Hỡi người làm chồng, hãy tỏ điều khôn ngoan ra trong sự ăn ở với vợ mình, như là giống yếu đuối hơn; vì họ sẽ cùng anh em hưởng phước sự sống, nên phải kính nể họ, hầu cho không điều gì làm rối loạn sự cầu nguyện của anh em.” (IPhi 3:7)
Người chồng yêu vợ mình bày tỏ điều ấy rất thực bằng cách cung cấp nhu cầu vật chất cho vợ. Trong Thánh Kinh sách Êphêsô đoạn 5, lời Chúa nói rằng người chồng phải nuôi dưỡng, chìu chuộng vợ như chính thân thể mình vậy. Trong tiếng Hi lạp, chữ “nuôi dưỡng” chỉ về thức ăn và những sự chăm sóc bên trong, trong khi chữ “chìu chuộng” nói đến quần áo và sự chăm sóc bên ngoài. Nói cách khác, để chứng minh thực tiễn tình yêu của chồng đối với vợ, người chồng nên làm tất cả những gì trong khả năng của mình để nuôi vợ và cung cấp cho vợ nơi ở, quần áo và tình yêu thương. Anh ta làm cho vợ hạnh phúc và đem cô ra khỏi tình trạng thiếu thốn, ưu phiền và đau đớn.
Nếu tình yêu là như thế, không người nam nào có tâm trí bình thường lại lập gia đình khi chẳng hề nghĩ gì đến việc cấp dưỡng cho vợ và gia đình của mình. Một người muốn trở thành một ông chồng xứng đáng phải có năng lực và tâm trí để làm việc. Điều đáng buồn là có vài người chồng không bao giờ yêu vợ và con mình theo ý nghĩa thật nhất của chữ yêu thương. Họ vẫn còn trông vào cha mẹ để nhận sự cấp dưỡng cho một gia đình đang nẩy nở của họ. Chắc chắn vợ họ sẽ phải xấu hổ biết bao. Và điều đó cũng xúc phạm đến DCT vô cùng. Trong ITi 5:8 chúng ta đọc thấy lời cảnh cáo này: “Ví bằng có ai không săn sóc đến bà con mình, nhứt là không săn sóc đến người nhà mình, ấy là người chối bỏ đức tin, lại xấu hơn người không tin nữa.”
Tuy nhiên, tình yêu không chỉ được thỏa mãn với sự chu cấp mà thôi. Tình yêu cũng được phát triển mạnh mẽ qua sự chia sẻ nữa. Chia sẻ chính con người của mình với vợ, bao gồm cả phương diện thuộc thể, ý chí và tâm linh là điều quan trọng hơn nhiều so với sự chu cấp về vật chất và tài chánh mà anh dành cho vợ. Cô vợ Cơ Đốc nào cũng rất vui thích khi biết được cách trở thành một người hỗ trợ tốt hơn cho chồng mình. Nhưng làm sao cô ta biết được khi anh không sống cởi mở và bày tỏ hết con người của anh?
Nơi đâu có tình yêu thương thì quyền lãnh đạo mang một chất lượng sâu hơn và cao hơn. Về vị trí, chồng là đầu vợ. Đó là lý do vì sao Phao Lô khuyên người vợ phải phục quyền lãnh đạo của chồng. (Eph 5:22-23). Thảo luận về phẩm chất của quyền lãnh đạo tại điểm này là điều rất quan trọng vì về mặt văn hóa, chúng ta là những người có cơ cấu gia đình mang bản chất uy quyền rồi. Chúng ta thường hay nghĩ rằng sự lãnh đạo là một loại quyền hành không bị giới hạn và không được chống cự lại. Trong gia đình, người cha có khuynh hướng duy trì một thái độ chuyên quyền, nghĩa là cai trị gia đình mình với bàn tay sắt và lời ông nói ra luôn luôn là luật lệ. Hậu quả là gia đình xa lánh ông và không nhận được sự giúp đỡ gì từ nơi ông. Chúng ta thường cho rằng chỉ người lớn, đặc biệt là những ông cha mới có quyền thực hiện những quyết định quan trọng, và không cho con cái có cơ hội để tự quyết định vấn đề nào của chúng. Trong những ngày còn thơ, con cái đã được dạy dỗ là phải vâng lời mà không được quyền thắc mắc chút gì về những lời răn dạy của cha mẹ, nhất là của ông cha.
Tuy nhiên, quan điểm của Phao Lô về quyền lãnh đạo được trao phó cho người chồng là một loại hoàn toàn khác hẳn. Ông nói rằng: “Vì người chồng phải chịu trách nhiệm về vợ mình thể nào thì Đấng Christ chịu trách nhiệm với thân thể Ngài là Hội Thánh cũng thể ấy. (Ngài đã phó chính mạng sống mình để bảo vệ Hội Thánh và trở nên Cứu Chúa của Hội Thánh). Một lần nữa, tại đây chúng ta thấy DCT trong thân vị của Đấng Christ được mang lấy hình ảnh biểu tượng như một người chồng về quyền lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Ngài được nêu bật lên qua sự hi sinh. Ngài đã hi sinh mọi sự thuộc về Ngài để trở nên Đầu của Hội Thánh. Cũng vậy, người chồng không dùng thái độ bạo ngược mà cai quản vợ và các con mình nhưng bằng những hành động yêu thương đầy hi sinh và quan tâm. Vì thật ra, làm thế nào người vợ có thể hết lòng thuận phục một ông chồng không đáng tin cậy và vô trách nhiệm? Hoặc làm thế nào con cái vâng lời và kính trọng ông cha có lời nói không đi đôi với việc làm. Trong bất cứ lãnh vực nào, quyền lãnh đạo thật được thành công bởi sự tận tâm chứ chẳng phải bạo lực.
Đưa ra phương hướng, biết trù tính và khích lệ người khác là một số phẩm chất của một lãnh đạo giỏi. Người nam nào khẳng định rằng mình yêu vợ và các con phải là người sống có mục đích. Người ấy biết mình đang dẫn gia đình đi đâu. Anh ta có những mục tiêu rõ ràng trong đời sống. Nhiều gia đình bước đi loạng choạng và cuối cùng bị tan rã vì trong gia đình thiếu một người nam có khả năng nắm quyền lãnh đạo với sự tự tin và có khải tượng. Một người chồng lười biếng và chẳng có mục đích chắc chắn sẽ đem những cái lung tung, hỗn loạn vào gia đình của anh. Bằng chứng này được nhìn thấy khi anh tỏ ra không thể nào ở một chỗ và nhận lãnh một công việc trong một giai đoạn hợp lý nào đó. Gia đình nào cứ mãi thay đổi quan điểm từ việc này đến việc nọ và từ năm nọ sang năm kia là gia đình không biết mình muốn gì. Với tư cách là một nhà lãnh đạo, người chồng cần suy nghĩ kỹ trong từng trường hợp.
Biết trù tính là một phần của người lãnh đạo giỏi. Trong gia đình, chồng nên là người tích cực trong việc trù tính những phúc lợi của gia đình mình. Điều này rất quan trọng vì một gia đình không có kế hoạch, cứ chạy theo đường nào mình muốn hoặc muốn có bao nhiêu con cũng được là một gia đình lộn xộn và không biết tự lo liệu. Với sự giúp đỡ của vợ, người chồng phải cầu nguyện và cân nhắc đến những vấn đề như nhà cửa, công ăn việc làm, bao nhiêu con, giáo dục con, tham gia vào Hội Thánh nào, việc kỹ luật và nhiều vấn đề khác nữa. Thái độ cẩu thả không phù hợp với sự nhấn mạnh của DCT về trách nhiệm của con người. Trông đợi nơi DCT không có nghĩa là ù lì hoặc không rục rịch. Lập kế hoạch trong thái độ khiêm nhường và đầy đức tin không có nghĩa là chống lại ý Chúa.
Mặt khác, có khả năng trù tính là một vấn đề mà có khả năng thực hiện quyết định ấy một cách dứt khoát lại là vấn đề khác. Nhiều ông chồng có đầy dẫy những kế hoạch nhưng thiếu hành động. Trái lại có những người rất thích thực hiện nhưng lại không có những phương hướng hoặc kế hoạch rõ ràng. Cả hai loại người này đều không thực hiện trọng trách như một người lãnh đạo giỏi hoặc người chồng khôn ngoan. Hầu hết những người làm vợ đều muốn thấy chồng mình tích cực trong việc lãnh đạo đời sống gia đình như việc lập kế hoạch, việc kỹ luật, sự tăng trưởng tâm linh và mưu cầu kinh tế. Nói cách khác, chồng là người yêu thương và lãnh đạo gia đình thì phải có trách nhiệm theo ý nghĩa trọn vẹn nhất của từ ngữ ấy.
Bây giờ chúng ta đến câu hỏi: Thế nào là một người cha?
Từ ngữ người cha cần được định nghĩa lại, vì chúng ta thường hay liên tưởng đến từ ngữ này một cách giới hạn qua những kinh nghiệm với người cha trên đất này. Có lẽ vài người trong chúng ta nghĩ đến “cha” như một hình ảnh mù mờ vì chúng ta lớn lên mà không hề liên hệ đến cha. Những người khác liên tưởng từ ngữ ấy với một người lúc nào cũng la mắng ra lệnh cho từng người trong nhà. Đối với vài người, ông cha là một nhân vật xa lạ mà khi có cha hiện diện họ không dám chuyển động hoặc lên tiếng. Vẫn có những người suy nghĩ đến cha như một người bận rộn, quá sốt sắng để tận hiến những gì người ấy có được cho sinh kế gia đình đến nỗi không có thì giờ chìu nựng con. Vẫn có nhiều người trong chúng ta, chữ “cha” dấy lên những ký ức thỏa lòng, những giờ hạnh phúc và chúng ta nghĩ cha mình là những nhân vật “vĩ đại.”
Tuy nhiên, người Cha Mẫu Mực của chúng ta là DCT. Chính Ngài nói rằng Ngài là Cha của chúng ta. Chúa Jêsus dạy các môn đồ cầu nguyện với DCT và gọi Ngài là “Cha của chúng con.” Vì thế những người cha Cơ Đốc cần phải suy xét đến loại người Cha như chính DCT đã bày tỏ và tập tành đời sống mình theo Ngài. Chúng ta đọc được trong Gie 31:9 “Chúng nó khóc lóc mà đến, và Ta sẽ dẫn dắt trong khi chúng nó nài xin Ta; Ta sẽ đưa chúng nó đi dọc các bờ sông, theo đường bằng thẳng, chẳng bị vấp ngã. Vì Ta làm cha Ysơraên, còn Épraim là con đầu lòng Ta.”
Cha có nghĩa là người mà con cái có thể chạy đến nương dựa những khi gặp cảnh khốn cùng, buồn thảm và đau khổ. Cha phải là người lau nước mắt cho con, làm vơi nỗi buồn thảm và làm dịu cơn đau của con. Các con trai và con gái của ông có thể giải bày tâm sự cách cởi mở và biết chắc cha chúng là người sẵn lòng lắng nghe, hiểu và giúp đỡ chúng. Chắc chắn người cha phải là người đầy cảm thông, nồng hậu và dễ gần gũi.
Rủi thay, không có mấy người cha được như thế ngay cả những người cha Cơ Đốc. Hầu hết các ông cha đều ráng đóng vai của một “nhân vật siêu nhiên.” Họ làm như mình là người rất tốt lành chẳng hề có lỗi lầm nào, can đảm vô cùng chẳng hề sợ một thứ gì và hết sức mạnh mẽ đến nỗi không chịu đựng được một khuyết điểm nào. Một đứa trẻ đã có ấn tượng như thế về cha mình sẽ không hề dám đến gần ông khi nó cần sự giúp đỡ. Nó sẽ nghĩ rằng cha mình không thể nào cảm thông nỗi. Ông sẽ không thể nào hiểu nỗi. DCT là Cha chúng ta thì chẳng phải như vậy. Ngài rất cởi mở và sẵn lòng an ủi. Khi chúng ta đến cùng Ngài với nước mắt đau đớn hoặc sầu thảm, Ngài sẽ ôm chúng ta vào lòng với sự cảm thông. Rồi Ngài để chúng ta ra đi với những giọt nước mắt vui mừng vì đã được rịt lành và an ủi.
Người cha có nghĩa là người dẫn đường, tức là phải làm gương và đưa lối bằng cách tỏ ra mình biết rất rõ mình chỉ là một người bất toàn. Trong một ẩn dụ của Giêrêmi, chúng ta nghe DCT công bố: “Ta sẽ trông nom và dẫn chúng về nhà. Chúng sẽ bước đi bên dòng suối bình tịnh và không hề vấp ngã.” Còn đứa con nào cần được dẫn về nhà nếu không phải là những đứa con đầy lỗi lầm, ương ngạnh và hư mất. Một số gia đình Cơ Đốc đang mang những vết thương vì có những đứa con trai cứng đầu và nổi loạn, phạm tội ác hoặc những đứa con gái nghiện thuốc phiện. Hầu hết những người cha này làm gì? Họ giận dữ và mắng chửi. Họ chỉ có thể nghĩ đến danh thể tốt đẹp hoặc chỗ đứng của họ trước xã hội mà thôi. Bậc làm cha cần ý thức rằng một phần trong trách nhiệm làm cha là dẫn dắt những người con hoang đàng ấy về nhà, nghĩa là trông mong con trở về và chào đón con. Trách nhiệm của người cha là phải phục hồi con về với sự ấm áp và tình thông công của gia đình, phục hồi niềm tự tin vào chính mình và nơi sự nhơn lành của DCT, để lại vui sống sau những ngày lầm lạc.
Một người cha cũng có nghĩa là một nơi ẩn náu. Trong cơn thống khổ Đavít đã kêu la cùng DCT: “Hỡi DCT, xin hãy nghe tiếng kêu của tôi, lẳng nghe lời cầu nguyện tôi. Khi tôi cực lòng, tôi sẽ kêu cầu cùng Chúa từ nơi cực địa; xin hãy dẫn tôi lên hòn đá cao hơn tôi. Vì Chúa là nơi nương náu cho tôi. Một tháp vững bền để tránh khỏi kẻ thù nghịch. Tôi sẽ ở trong trại Chúa mãi mãi, nương náu mình dưới cánh của Chúa.”
Theo Edith Schaeffer trong phần “Một Sứ Điệp Dành Cho Những Kẻ Làm Cha” của tờ Cơ Đốc Giáo Ngày Nay thì trong “nơi ẩn náu” chúng ta được tránh khỏi “gió, mưa, băng tuyết, lạnh, nóng, đất cát, muỗi mòng hay những đội quân của loài người.” Một người cha được xem như một tháp che vững chắc. Chính từ ngữ “cha” phải gợi lên trong chúng ta một cảm giác an ninh.
Nơi nương náu của DCT đẩy lùi những cơn nguy hiểm nhưng đồng thời cũng đưa chúng ta đến những thực tại đầy trọn. Ít nhất, một gia đình vây quanh bên bếp lửa chia xẻ với nhau những suy nghĩ và kinh nghiệm trong bầu không khí ấm áp và quan tâm là nơi phản ảnh được sự trọn vẹn của Đức Chúa Trời. Ngài luôn sẵn sàng lắng nghe và khuyên nhủ, và ‘trong nơi Ngài hiện diện có đầy dẫy sự vui mừng’”
Mạnh mẽ là một đặc tánh nữa của Đức Chúa Trời với tư cách là Cha. Tác giả Thi Thiên công bố trong Thi 46:1 rằng: “DCT là nơi nương náu và sức lực của chúng tôi, Ngài sẵn giúp đỡ trong cơn gian truân.” Có lẽ những người cha trên đất này không có loại sức lực của DCT nhưng bao lâu còn sống thì họ phải hết sức mình đem lại sức lực về thuộc thể, đạo đức và tâm linh cho các con. Trẻ con rất vui thích với một người cha khỏe mạnh vì chúng có thể đu lên tay cha hoặc bắt cha cõng trên lưng. Nhưng điều cần thiết nhất là những người cha mạnh mẽ về mặt đạo đức và là người nắm lấy những sự tin chắc mà DCT đã ban cho. Loại người cha Cơ Đốc mạnh mẽ này cần được phát huy và lưu truyền lại cho con cháu, vì đó là một di sản sẽ bảo đảm cho sự làm chứng về Chúa Jêsus cách liên tục từ đời này sang đời kia giữa xã hội trần tục này.
Hỡi người làm chồng và làm cha, DCT đã nêu lên một Khuôn Mẫu Hoàn Hảo cho những người nam Cơ Đốc đã lập gia đình. Nguyện chúng ta cố gắng noi theo hình ảnh của Ngài!
VAI TRÒ NGƯỜI VỢ
DCT không dự định thành lập hôn nhân để chứng minh người nữ bình đẳng với người nam. Ngài đã lập ra hôn nhân để bày tỏ sự kết hợp hài hòa giữa nam nữ và cho thấy họ cần đến nhau biết bao. Êva bổ sung cho Ađam và Ađam bù khuyết cho Êva. Họ thuộc về nhau như một tổng thể gồm có hai phần, đó chính là công việc kỳ diệu của cánh tay Đấng Toàn Năng. Ađam thừa nhận vợ mình như là “xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi mà ra”.
Trong tâm trí của DCT Ngài không hề thắc mắc họ có bình đẳng với nhau hay không. Không thể có sự liên hợp “một thịt” nếu người này là thấp kém đối với người kia. Phao Lô nói rằng: “Song trong Chúa thì người nữ vẫn cần đến người nam, người nam vẫn cần đến người nữ; Vì người nữ đã ra từ người nam, thì người nam cũng phải sanh bởi người nữ, và cả thảy đều ra bởi DCT…”
Chúng ta phải hiểu thật rõ tư tưởng nói rằng chồng và vợ bổ sung cho nhau. Bổ sung cho nhau có nghĩa là bù vào những chỗ trống hay làm cho trọn những chỗ còn thiếu. Chồng và vợ bổ sung những nhu cầu của nhau một cách hỗ tương. Điều này hoàn toàn khác hẳn với sự thích hợp. Tính tương hợp là khả năng chung sống với nhau cách rất hòa thuận. Nếp sống này chủ yếu nhắm vào những sở thích chung và quan điểm giống nhau của cả hai về những điều họ cho là có giá trị.
Những cặp vợ chồng có thể đem vào hôn nhân các sở thích chung là điều rất hay rất tốt. Nhưng kinh nghiệm hàng ngày cho chúng ta thấy đời sống hôn nhân bày tỏ những sự khác biệt hoàn toàn giữa chúng ta với người bạn đời. Chúng ta có thể kể ra hằng trăm điều khác biệt lớn nhỏ giữa mình với người kia và chỉ có thể kiếm được vài cái tương đồng. Và đôi khi nếu phải đồng ý thì chúng ta cũng làm điều ấy cách miễn cưỡng. Nếu hai người đã sẵn hòa hợp với nhau, thì chúng ta có rất ít công việc phải thực hiện để giữ cho hôn nhân tồn tại và có mục đích. Nhưng nếu chúng ta bước vào hôn nhân để bổ sung cho nhau, để chia xẻ, để ban cho, để yêu thương, để giúp người kia trở thành người trọn vẹn và đầy đủ, thì chúng ta sẽ làm trọn mục đích của DCT dành cho hôn nhân.
Cô vợ là người nắm giữ chìa khóa về tư tưởng của ‘sự bù đắp’ ấy. Cô ta được tạo dựng nên để hỗ trợ, để trở thành một người ‘giúp đỡ’. “Vì người nam không phải được dựng nên từ người nữ, nhưng người nữ ra từ người nam. Không phải đàn ông vì cớ đàn bà mà được dựng nên, bèn là đàn bà vì cớ đàn ông vậy.’ Hầu hết phụ nữ chúng ta đều không ưa ý tưởng này. Từ ngữ ‘người giúp đỡ’ khiến chúng ta nghĩ đến một người kém cõi và ở vị trí thấp hơn. Chúng ta tưởng tượng chính mình phải cuối rạp xuống và khúm núm trước người nắm quyền hành. Chúng ta nghĩ trở nên một người giúp đỡ là trở nên một kẻ nô lệ. Tư tưởng ấy thật khác xa với ý nghĩ của DCT biết bao!
Thành ngữ ‘người giúp đỡ’ đơn giản có nghĩa là “một người giúp đỡ đáp ứng cho anh ta” hay ‘một người đáp lời anh ta.” Cô chia xẻ những trách nhiệm của chồng, đáp ứng với bản chất của anh ta trong sự yêu thương, am hiểu và hết lòng cộng tác với anh trong việc thực hiện kế hoạch của DCT. Cô ta tiêu biểu cho một người nương dựa nơi chồng mình và không thể trọn vẹn được nếu thiếu chàng…Vì người nữ được tạo dựng nên từ xương
sườn của người nam nên cô được cột chặt vào chàng và chịu trách nhiệm làm người giúp đỡ chàng.”
Chia xẻ. Đáp ứng. Cộng tác. Đây là một nhiệm vụ thật nặng nề. Chia xẻ nghĩa là loại trừ sự ích kỷ, đáp ứng lại đòi hỏi sự nhạy bén, và muốn cộng tác được cần phải có nỗ lực.
Bây giờ chúng ta hãy xem những trách nhiệm của chồng là gì và làm thế nào vợ có thể cùng chồng chia xẻ những trách nhiệm ấy?
Ông chồng với tư cách là đầu gia đình được Chúa kêu gọi để thực hiện trọng trách xây dựng mái ấm. Người vợ chia xẻ trách nhiệm này bằng cách xem gia đình là mối quan tâm hàng đầu của mình. Hầu như chúng ta có thể nghe được tiếng phản đối của nhiều người nữ tân thời theo phái ‘tự do’, những cô gái có nghề nghiệp và các bà mẹ làm công việc bên ngoài. Ở nhà, giữ cho nhà cửa gọn gàng sạch sẽ, giặt đồ, nấu ăn, sửa đổi và chỉnh đốn con cái từ năm này sang năm khác chẳng mang vẻ của cuộc đời đầy ý nghĩa chút nào. Chúng ta ao ước được bày tỏ chính mình qua công việc mà chúng ta đã được huấn luyện! Nóng lòng được nổi danh giữa đồng bạn. Chúng ta làm như vậy với một lý do tốt, để có thể thêm chút ít vào ngân quỹ gia đình.
Chúng tôi không hề có ý nói rằng những người vợ, người mẹ như chúng ta đi làm công việc bên ngoài là hoàn toàn sai. Chúng ta nên đi làm việc nếu điều đó là cần thiết. Nhưng đừng bao giờ để cho nghề nghiệp, ngay cả sự kêu gọi vào “chức vụ hầu việc Chúa” nắm lấy quyền ưu tiên của chồng và con chúng ta. Khi một thiếu nữ đang hầu việc Chúa quyết định lập gia đình, thì chức vụ của cô chính là chồng và mái ấm gia đình và điều đó thật sự đến từ Chúa. Có lẽ chúng ta chống đối ý tưởng này nhưng vấn đề thực sự là thế.
Peter Marshall là một nhà truyền giáo trứ danh vào thời của ông, đã khen ngợi các bà mẹ bằng cách nói rằng:
Chúng ta nghe rất nhiều về những người nữ khác nhau, nào là những người nữ đẹp đẽ,
những người nữ khôn ngoan, những người nữ tinh vi, những người nữ có tài, những người nữ bị li dị…
nhưng thật hiếm khi chúng ta nghe tiếng tăm về một người nữ tin kính, hay một người nam tin kính.
Tôi tin rằng gia đình là nơi những người nữ càng đến gần hơn với việc hoàn thành chức năng mà DCT ban cho họ hơn bất cứ nơi nào khác.
Phao Lô đã khuyên Tít dạy dỗ những người đàn bà trẻ tuổi “phải biết yêu chồng con mình, có nết na, trinh chánh, trông nom việc nhà; lại biết ở lành, vâng phục chồng mình, hầu cho đạo DCT khỏi bị một lời chê bai nào.” (Tit 3:4-5)
Chúng ta cũng chia xẻ trách nhiệm với chồng trong việc thực hiện những quyết định. Thật ra ảnh hưởng của chúng ta rất lớn đến nỗi có thể khiến anh thay đổi suy nghĩ của mình. Chúng ta đã từng nghe câu thành ngữ, nếu chồng là đầu thì vợ là cổ. Và cô có thể quay anh theo bất cứ hướng nào mà cô muốn. Thật ra chúng ta chẳng nên làm thế.
Ai trong chúng ta cũng nhận biết một cách mạnh mẽ rằng là người vợ Cơ Đốc chúng ta phải thật cẩn trọng trong việc sử dụng ảnh hưởng của mình trên chồng để anh ta phải thất bại trong việc làm trọn vai trò làm đầu mà DCT đã giao phó cho anh. Cô có thể đề nghị. Cô có thể giúp anh đo lường những điểm lợi và bất lợi. Cô có thể đưa ra những cái để chọn lựa. Nhưng cô nên trao quyền quyết định sau cùng cho chồng. Nếu anh ta phạm lỗi, hãy cho anh đặc ân ấy. Hãy chia xẻ lỗi lầm ấy với anh và đừng vì cớ gì mà đỗ lỗi cho anh. Nếu cô ta đỗ lỗi cho chồng (như cô vẫn bị cám dỗ để làm vậy) cô đã thất bại trong việc bù đắp vào khoảng trống của chồng. Thậm chí cô còn phạm lỗi vì đã tạo ra một khoảng cách giữa đôi bên. Lời Chúa trong Ch 31:12 nói rằng: “Trọn đời nàng làm cho chồng được ích lợi, chứ chẳng hề làm tổn hại.”
Nếu chồng là người lao động chính của gia đình thì trách nhiệm của vợ là sử dụng đồng tiền khó nhọc cách khôn ngoan để chia xẻ với chồng. Các bà vợ Philippine hay có khuynh hướng sống rất phung phí. Chúng ta muốn mình trở nên xinh xắn và bắt mắt, thế là cứ làm mọi cách để đạt cho được. Chúng ta ao ước nhiều điều cho gia đình mình và muốn sống cách sung sướng. Đây là những ước muốn hợp lý nhưng chúng ta cần nhạy bén đủ để đặt những điều quan trọng nhất lên hàng đầu. Chúng tôi có biết một ông chồng nọ cứ mãi thay đổi công việc của mình. Ông luôn luôn tưởng tượng đến việc ăn cắp tiền vặt. Vì vợ ông, một Cơ Đốc Nhân, là người “bạn đời đắt giá” mà ông đang giữ trong nhà. Cô ta đòi hỏi nhiều thứ xinh xắn mà ông không thể cung phụng. Những người làm vợ nên nhớ rằng, chúng ta có thể mua được những vẻ đẹp đầy màu sắc, nhưng vẻ đẹp thật là vẻ đẹp bề trong và vẻ đẹp ấy cần phải được tăng trưởng. Thánh Kinh nhấn mạnh rằng: “Nhưng hãy tìm sự trang sức bề trong giấu ở trong lòng, tức là sự tinh sạch chẳng hư nát của tâm thần dịu dàng im lặng, ấy là giá quí trước mặt DCT.” (IPhi 3:4)
Cũng thật thú vị khi chúng ta thấy người vợ được mô tả trong Châm Ngôn 31 là người thật bận rộn với những công việc thực tế. Cô ta đã chia xẻ gánh nặng kinh tế của gia đình qua những công việc này. “Nàng lo tìm lông chiên và gai sợi, lạc ý lấy tay mình mà làm công việc…nàng tưởng đến một đồng ruộng bèn mua nó được; nhờ hoa lợi của hai tay mình, nàng trồng một vườn nho. Nàng thắt lưng bằng sức lực, và làm hai cánh tay mình ra mạnh mẽ. Nàng cảm thấy công việc mình được ích lợi; ban đêm đèn nàng chẳng tắt…Nàng chế áo và bán, cũng giao đai lưng cho con buôn.”
Người vợ được bình đẳng với chồng trong việc chia xẻ trách nhiệm kỷ luật và huấn luyện con cái. Peter Marshall rất thích gọi các bà vợ một cách sinh động là “những người gìn giữ mùa xuân.” Từ khi con cái còn bé bỏng được ôm ấp trong tay, ngồi trên lòng, chúng ta nên bắt đầu dạy dỗ chúng về DCT, về chân lý, việc tôn trọng người khác, yêu thương và những đức tính khác nhau của CDN. “Hãy dạy trẻ thơ con đường nó phải đi, hầu khi nó trở về già cũng không hề lìa khỏi đó.” Ch 22:6. Billy Graham nói rằng: “Trừ khi bạn đã có trong tay đứa con khá tốt đẹp vào cỡ năm hoặc sáu tuổi, còn không thì
dường như đã quá trễ. Kinh Thánh nói rằng, ‘chỗ này một chút, chỗ kia một chút…giềng mối thêm giềng mối.’ Bạn không thể đợi đến khi con được 12, 13 tuổi rồi mới đột nhiên tọng một mớ tôn giáo vào cổ họng chúng. Như vậy chẳng ích lợi gì đâu. Ngay từ khi còn nhỏ, chúng đã được bạn bắt đầu dạy dỗ cứ mỗi lần một ít.
Chúng ta cũng biết đôi khi các bà mẹ có tấm lòng rất mềm yếu. Chúng ta không đánh con được. Và lại đau đớn mỗi khi thấy chúng bị cha đánh. Nhưng kinh nghiệm cho biết rằng cây roi là vật rất cần thiết. “Sự ngu dại vốn buộc vào lòng con trẻ song roi răn phạt sẽ làm cho sự ấy lìa xa nó.” 22:15. Đừng thả lỏng con cái nhưng hãy kỷ luật chúng, việc kỷ luật không làm tổn hại đến chúng đâu. Bạn cứ lấy roi đánh vào mông, chúng chẳng chết đâu! Sự sửa phạt sẽ cứu chúng khỏi địa ngục.
Cuối cùng, chúng ta hãy cố gắng chia xẻ những sở thích của anh ta. Dầu cho đó có là cổ phần, việc chăn nuôi gà vịt hay điện đóm. Một Mục sư kia than thở, “Làm sao tôi có thể chia xẻ những khám phá kỳ diệu về thần học trong khi vợ tôi thậm chí còn không muốn nghe chứ đừng nói chi đến việc tìm xem những khám phá đó là gì!”
Người làm vợ phải luôn ghi nhớ một nguyên tắc chung: bất cứ điều gì làm cho một người ham thích, người ấy sẽ bị thu hút vào đó và dành thì giờ, sức lực mà cứ suy nghĩ về nó. Người ấy muốn được nói thật nhiều về vấn đề đó. Nếu một bà vợ lơ là trước những sở thích của chồng, cô ta đang trong nguy cơ trầm trọng bị mất anh ta. Sự thông công của họ sẽ bị giới hạn. Họ không còn muốn chia xẻ với nhau về một vài vấn đề nữa. Một số niềm vui khi cùng có nhau trong công việc sẽ bị mất đi. Không gì có thể so sánh được với sự gặp gỡ chân thật của hai tâm trí trong tình yêu hôn nhân.
Không những vợ là người hỗ trợ cho chồng trong lãnh vực chia xẻ những sở thích, nhưng cô còn dùng sự hiểu biết và tình yêu thương đáp ứng với chính con người của anh ta nữa. Có nghĩa là cô phải nhạy bén trước nhu cầu của anh và rất cảm thông trước những nỗi yếu đuối của anh. Khi anh ta có nhu cầu về tình dục để khẳng định tình yêu thương, cô sẵn lòng cho anh chính thân thể mình cách vui vẻ. Nếu anh ta bị nản lòng, cô nói lời an ủi và có những cử chỉ khẳng định tình yêu cô dành cho anh. Cô thấu hiểu những nỗi đau và xúc cảm của anh. Cô chấp nhận sự bất toàn của anh như cô đã chấp nhận con người của anh cách đây nhiều năm.
Làm điều này không phải lúc nào cũng dễ dàng đâu. Vì bẩm sinh người vợ không phải là một thiên thần. Cô cũng có những nỗi phiền muộn riêng và những tâm tánh xấu xa. Cô cũng muốn được yêu và được cảm thông như bất cứ con người nào. Chính cô cũng cần sự hỗ trợ của chồng. Chồng và vợ phải cùng nhau cầu nguyện thế nào để bởi ân điển, ý chỉ của Chúa phải được trọn vẹn trên đời sống của họ.
Cuối cùng, chồng mong đợi vợ hết lòng cộng tác với anh trong việc thực hiện kế hoạch của DCT. Trong hôn nhân Cơ Đốc, kế hoạch của DCT là hình ảnh của Đấng Christ được bày tỏ qua đời sống của hai người. Ý chỉ của Ngài là qua tình yêu của chồng đối với vợ và sự vâng phục của vợ đối với chồng, người ta sẽ nhận biết Đấng Christ yêu Hội Thánh, là cô dâu mà Ngài đã mua chuộc bằng chính huyết Ngài biết bao.
Những cặp vợ chồng Cơ Đốc cần có sự nhận biết Đấng Christ mỗi ngày để hôn nhân của họ được trọn vẹn và hạnh phúc. Chúng ta dễ có khuynh hướng quên DCT trong nỗi bận rộn kiếm sống hằng ngày. Có lẽ chúng ta cũng có giờ đọc Kinh Thánh và buổi nhóm gia đình gia đình lễ bái. Nhưng những thì giờ đó chỉ tô điểm cho sự khô khan vô vị của tâm linh chúng ta, chỉ là những nghi thức Cơ Đốc vô nghĩa mà thôi.
Một lần kia, tôi nằm trong căn phòng giữa đêm đen không ngủ được và ôn lại những ngày vừa qua. Những điều không hay giữa nhà tôi và tôi. Chúng tôi cứ thường xuyên cãi nhau về những vấn đề mà ngày xưa chúng tôi cho là chuyện không đáng. Nhà tôi là người hay phê phán. Tôi bị tổn thương và ném trả lại bằng những lời phê bình nham hiểm.
Tôi tự hỏi, “Tại sao điều này lại xảy đến với chúng tôi?” Những ngày qua đầy sự xa cách, lạnh nhạt, thờ ơ. Tôi đã làm gì sai? Có bổn phận nào mà tôi không chu toàn với anh ta? Tôi nhìn vào chính mình, và đã tìm thấy câu giải đáp.
Tôi đã mất đi sự gần gũi với Chúa. Gần gũi Ngài là kết quả của mối quan hệ hạnh phúc giữa hai chúng tôi. Mấy ngày qua tôi không nhắc tên anh khi đến với Chúa. Thật ra lời cầu nguyện dường như khô cứng trên miệng tôi và lời Ngài không còn phán bảo với tôi nữa. Vì tôi quá bận rộn.
Tôi nhận thức được tình trạng của mình và biết phải làm lại từ đầu. Nhưng đây không phải là lần cuối tôi vi phạm lỗi lầm này.
Nhà tôi và tôi sẽ còn phải làm mới lại mối thông công và sự cảm thông nhau nhiều và nhiều lần nữa. Nhưng điểm bắt đầu phải luôn luôn với DCT. Hãy có mối quan hệ phải lẽ với Ngài. Vì chúng ta là những người hay quên biết bao.
VẤN NẠN TIỀN BẠC
Tôi sờ tay vào mấy củ hành không được ngon lắm chuẩn bị nấu chung với một nhúm đậu. Lòng tôi chùng xuống. Không có đủ thức ăn cho bữa trưa hôm nay. Tôi lại vừa mới vét thùng gạo để nấu lấy nước pha bình sữa cuối cùng cho đứa bé hai tháng. Quả là một ngày “sạch sẽ”, điều này thật sự đã xảy đến cho tôi. Không có thức ăn, không có sữa cho con mà cũng chẳng còn tiền. Tôi biết. Tôi đã lộn hết tất cả các túi của tất cả các giỏ xách mà chẳng có đồng nào rớt ra.
Gia đình nào cũng bị vấn đề tiền bạc chi phối khi này khi khác, nếu không nói hầu như mọi lúc. Trong nhiều gia đình tiền bạc là nguyên nhân của những bực tức và những cuộc cãi vã vặt vãnh thường xuyên giữa vợ chồng. Sở dĩ như vậy vì từ những ngày đầu trong đời sống hôn nhân, hai người đã không vạch ra một phương hướng để đối phó với những cơn khủng hoảng đó.
Thời còn con gái, tôi vẫn thường có đủ tiền để chi dùng, vì thế trong năm đầu tiên của thời kỳ hôn nhân lòng tôi rất âu lo mỗi khi chúng tôi chẳng có đồng nào suốt mấy ngày liền. Nhưng nhà tôi là Mục sư đã sớm dạy dỗ tôi. Anh nói, “khi chúng ta có tiền, hãy ngợi khen Chúa, và khi không có tiền, hãy kiên nhẫn. Nhưng vẫn cứ ngợi khen Ngài như khi có tiền vậy.” Tôi học tập để cũng biết yêu thích triết lý của nhà tôi, là triết lý mà sau bao nhiêu năm tháng tôi vẫn khám phá ra rằng đây là thái độ yên nghỉ tuyệt vời. Cũng không cảm thấy mình có nhu cầu nào nữa.
Tuy nhiên, tôi không có ý nói rằng tiền bạc là không quan trọng. Tiền bạc rất quan trọng. Chúng ta cần tiền bạc để sống động trong nền kinh tế chuyên sử dụng tiền này. Tiền bạc có khuynh hướng trở thành chủ đề chính của những buổi chuyện trò, cãi vã, hoặc những niềm vui mừng của chúng ta, nghe thật đau đớn nhưng điều đó là thật và ngay cả trong chức vụ hầu việc Chúa cũng vậy.
Những người sung túc chung quanh chúng ta đang bị cám dỗ để tích lũy sự giàu sang chỉ vì niềm vui được giữ nó. Một số người lại sử dụng tiền bạc của mình để sai khiến hay kiểm soát những cá nhân hay những nhóm người. Còn không thì dùng tiền bạc chất chứa mọi thứ xa xí phẩm khiến cho những người hàng xóm kém may đang mắn quằn quại trong nỗi đau đớn nghèo thiếu thấy được khoảng cách giữa hai cuộc đời giàu, nghèo. Còn chúng ta là người phải xoay xở một cách khó khăn lắm để giải quyết khoảng cách ấy lại rất đau đầu về vấn đề tài sản đến nỗi lấy việc “làm giàu” làm mục đích chính của đời sống mình.
Thái độ trần tục này không chỉ cột trói những người không tin Chúa mà thôi. Nhưng nó còn là một bằng chứng rất hiển nhiên giữa vòng những người xưng nhận rằng mình là kẻ trung thành với Đấng Christ. Chẳng hạn như có một số nhà truyền giáo không chịu dời đến bất cứ một căn nhà nào nếu nhà ấy không được trang bị đầy đủ theo sở thích của họ. Có một vài Mục sư và những người hầu việc Chúa đặt sự phục vụ của họ vào một số cách mua bán đấu giá, bằng cách tuyên bố rằng nhóm truyền giáo nào có thể chi tiền trợ cấp một cách “ngon lành” nhất thì họ sẽ đến đó thi hành chức vụ. Và những tín hữu bình thường trong Hội Thánh cũng không thuộc trường hợp ngoại lệ. Sự tham lam và chủ
nghĩa vật chất đã đầu độc quá nhiều người trong chúng ta, đến nỗi chúng ta không còn bị dằn vặt bởi mặc cảm tội lỗi nữa. Trừ khi chúng ta để cho Đức Thánh Linh đặt để sự nhạy bén vào lòng chúng ta một lần nữa, nếu không chúng ta sẽ chẳng khác với những người không biết gì về sự tốt lành của DCT. Sứ đồ Phao Lô nói rằng lòng yêu mến tiền bạc là bước đầu tiên dẫn người ta đến với mọi loại tội lỗi. Thậm chí có người đã bỏ DCT cũng chỉ vì ham mê tiền bạc, và hậu quả là phải mang lấy nhiều điều đau đớn. (ITi 6:10)
Đối với những cặp vợ chồng mới lập gia đình, cách tốt nhất là nên ngồi lại với nhau, cùng cầu nguyện và đồng ý với nhau về thái độ đối với tiền bạc cũng như cách chúng ta sẽ sử dụng chúng. Hết sức cởi mở trong khi bàn bạc với nhau và có phương cách điềm đạm, bình tĩnh khi suy nghĩ đến vấn đề tài chánh là điều rất quan trọng. Nhờ vậy chúng ta sẽ tránh được những sự xích mích và hiểu lầm không cần thiết trong tương lai.
Tiền bạc, cũng như đời sống, tài năng, thì giờ và mọi thứ tốt đẹp khác của đời này mà chúng ta đang sở hữu đều là những món quà từ DCT. Và chúng ta chỉ là những người quản lý món quà này mà thôi. Một người quản lý không xem những gì mình đang giữ là của mình. Tất cả những thứ ấy đều thuộc về người chủ của chúng. Vấn đề giữa DCT và con người cũng vậy. DCT là Đấng sở hữu tình trạng của chúng ta cũng như những gì chúng ta đang có. Nhưng Ngài cho chúng ta đặc ân được trông nom những tặng phẩm mà Ngài đã cho chúng ta, bao gồm cả tiền bạc. Ngài muốn những người quản lý tài sản của Ngài phải không chỗ trách được, trung tín và đáng tin cậy.
Khi chúng ta ý thức được rằng số tiền chúng ta nhận lấy dầu ít hay nhiều đều đến từ Chúa, chúng ta sẽ rất cẩn trọng trong cách sử dụng tiền. Chúng ta xem tiền bạc như một điều gì đó được Chúa ủy thác, vì lý do đó cần phải hỏi ý Ngài về cách sử dụng nó. Và dường như bao giờ DCT cũng cung cấp tiền bạc cho chúng ta để đáp ứng nhu cầu chứ chẳng phải để thỏa mãn đời sống hoang phí. Nếu người vợ lấy tiền chợ của gia đình để mua chiếc áo khoác hết sức đắt tiền, và gia đình phải chịu đói thì không phải lỗi của DCT. Và tôi nghĩ, trong trường hợp này xin Chúa tiếp trợ là điều không phải lẽ.
Để có được một ngân sách khôn ngoan về số tiền mình kiếm được chúng ta cần để thì giờ lập một kế hoạch chu đáo và có tính toán. Ngay từ những ngày đầu mới cưới, vợ chồng nên bàn thảo để có những phương hướng thỏa thuận. Đôi khi ông chồng chỉ nói, “Em muốn sử dụng sao tùy ý. Trách nhiệm của anh là đem tiền về. Em cứ làm theo cách em thấy là tốt nhất.” Cô vợ cảm thấy nhẹ nhàng khi nghe một câu nói như thế. Nhưng đôi khi điều tốt nhất cho chính chúng ta lại không phải là điều tốt nhất cho gia đình. Và trầm trọng hơn nữa là trong thực tế nhiều cô vợ lại không biết cách sử dụng tiền bạc. Nếu tôi là cô vợ ấy, tôi sẽ nói, “Nhưng em thích chúng ta cùng ngồi lại với nhau để lập một ngân sách hơn. Anh hãy nhớ rằng đây là đồng tiền của Chúa. Em rất cần sự giúp đỡ của anh để sử dụng tiền bạc thật khôn ngoan.”
Trước hết, hãy khẳng định xem gia đình bạn kiếm được bao nhiêu tiền mỗi tháng, mỗi tuần hoặc bất cứ cách tính nào tiện lợi nhất cho bạn khi nói đến việc lập ngân sách. Sau đó liệt kê xuống những chi phí căn bản. Chi phí căn bản là những điều mà bạn không thể sống nếu thiếu nó, như thức ăn, tiền thuê nhà, tiền điện, quần áo, thuốc men, vv…Nếu đã trừ ra hết mọi thứ cần thiết rồi, mà bạn thấy mình may mắn còn dư tiền, hãy để riêng
ra đó cho những nhu cầu khẩn cấp. Khi viết xuống một ngân sách, phải nhớ rằng số chi không được trội hơn số thu. Tôi thừa nhận là trong thời buổi này càng ngày càng khó làm cho mức chi luôn ở dưới mức thu. Nhưng lợi điểm của việc có một ngân sách giúp bạn khẳng định những thứ tự ưu tiên trong gia đình. Ít nhất bạn cũng được an ủi là không biết đã làm gì mà hết trơn tiền. Và thỉnh thoảng chồng có hỏi, “Ba trăm ngàn anh đưa em tuần trước đâu rồi?” Bạn luôn luôn có một danh sách để “trình diện”. Và đừng quá tức giận chỉ vì một chút tò mò của chồng.
Như tôi đã đề cập đến vấn đề này, đừng mắc nợ ai chi hết là một nguyên tắc rất hay của Thánh Kinh mà bạn phải giữ trong hôn nhân. Gây nên những món nợ không cần thiết là làm căng thẳng ngân sách lẫn tâm trí gia đình, nhất là khi bạn không thấy được phương cách cụ thể nào để giải quyết nó. Những hàng hóa đẹp mắt, trang thiết bị ngày càng tiến bộ luôn lôi kéo lòng dạ của những bà nội trợ như chúng ta. Nhìn thấy những hình ảnh quảng cáo đẹp đẽ trên màn ảnh hoặc báo chí khiến chúng ta ao ước được thuộc về nhóm tinh hoa, tức những người “đẹp đẽ”. Chắc chắn, chúng ta ngồi trầm ngâm, cái bàn này có vẻ không hợp với chiếc đàn piano ở bên góc hay bộ ti vi đằng kia. Hoặc cách tốt nhất để giải quyết cái nóng trong những ngày hè này là một chiếc tủ lạnh trả góp. Dường như hai triệu rưỡi, ba triệu hay hơn nữa cũng không đáng là bao. Và rồi chẳng cần suy nghĩ, chúng ta biến ngay ao ước thành hành động.
Bất cứ lúc nào quyết định một việc gì đó, chúng ta đều có vài lý do vì sao mình thực hiện. Và việc mua hàng theo lối”mua trước trả sau” cũng vậy. Nhưng đối với những cặp vợ chồng Cơ Đốc xem chức việc quản lý tài sản của DCT là một vấn đề hệ trọng thì tốt hơn nên chậm rãi và suy xét đến những hậu quả sau đó.
Chúng ta có thật sự cần món hàng thời trang ấy không? Hay chỉ vì người hàng xóm đang có một cái. Liệu mức thu nhập có cho phép chúng ta trả toàn bộ số tiền ấy theo đúng thời hạn qui định mà không làm tê liệt ngân sách gia đình hay không? Liệu chúng ta có nên ăn cá khô và “cá rô cây” trong vòng 25 tháng tới chỉ với mục đích được nhìn thấy các “Siêu sao” trên Tivi không? Dĩ nhiên nhấn mạnh quá đáng đến việc ăn uống là điều không nên. Nhưng giữa vấn đề sức khỏe và sự giải trí (và có lẽ luôn với uy tín có được chiếc Tivi đời mới nhất) sức khỏe vẫn là vấn đề cơ bản hơn. Có phải mua hàng theo lối trả góp là cách tốt nhất để tích lũy những trang thiết bị gia đình không? Sao chúng ta không kiên nhẫn đợi cho đến lúc có đủ tiền rồi hãy mua. Mua như vậy mới rẻ hơn nhiều chứ. Và rồi đến câu hỏi quan trọng, chúng ta có chắc là Chúa muốn chúng ta có món hàng ấy không?
Nan đề của hầu hết các gia đình không phải là không có tiền, nhưng là chúng ta muốn có thêm để sắm sửa, mà đó lại là những hàng thứ yếu không thật sự cần thiết. Trong thời đại mà dường như người ta bị ép buộc để mua sắm, thật khôn ngoan cho các cặp vợ chồng Cơ Đốc biết bao nếu chúng ta ghi nhớ lời cảnh cáo của Phao Lô trong He 13:5, “Chớ tham tiền; hãy lấy điều mình có làm đủ rồi, vì chính DCT có phán rằng: Ta sẽ chẳng lìa ngươi đâu, chẳng bỏ ngươi đâu.”
Sự thỏa lòng không được đo lường bởi số lượng tiền chúng ta có trong nhà băng. Cũng không nằm trong chiếc đàn piano hay chiếc xe hơi. Nhiều người có cả những thứ
này nhưng lại thấy đó là gánh nặng cho mình. Sự thỏa lòng là tình trạng bình an của một người. Đó là một sự tin cậy yên tịnh của sự nối kết phải lẽ với DCT, với chính mình và với người lân cận. Sự thỏa lòng tùy thuộc vào những mối quan hệ hơn là vào vật chất. Rốt lại, như vua Salômôn nhận xét, “Thà một miếng bánh khô mà hòa thuận, còn hơn là nhà đầy thịt tế lễ lại cãi lộn nhau.” (Ch 17:1)
Thông thường, những gì chúng ta sở hữu hay số tiền chúng ta có được hay lập tức tạo nên một khoảng cách trong mối quan hệ và thông công của chúng ta với người khác. Nó làm căng thẳng mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái, và giữa những người lân cận. Khiến cho mối thông công của chúng ta trở thành lấn cấn. Lần nọ chúng tôi đến thăm một người hàng xóm mới sắm một bộ Tivi. Sau khi chúng tôi đã ngồi, người đàn ông trong căn nhà ấy đá vào cái Tivi, mọi người yên lặng nặng nề và chúng tôi phải ráng ở cho trọn buổi thăm viếng. Tôi nghĩ, thật là kỳ quặc. Chúng tôi đến để thăm viếng, để được chuyện trò vui vẻ và rồi chúng tôi nhận được gì? Một buổi tối với sự tiếp đãi lạnh nhạt và vô vị.
Những món quà DCT ban cho là phương tiện để chia xẻ. Chỉ muốn cất giữ và sử dụng tiền bạc cho chính mình mà thôi là một quan điểm hẹp hòi và ích kỷ. Chia xẻ theo khả năng của chúng ta chẳng bao giờ làm cho chúng ta nghèo thiếu cả. Thay vào đó, sự ban cho còn đem lại những phước hạnh mà chúng ta không tìm kiếm nữa. Vua Salômôn nhận xét như vầy, “Ai thương xót kẻ nghèo, tức cho Đức Giêhôva vay mượn, và Ngài sẽ báo lại việc ơn lành ấy cho người! (Ch 19:17)
Đừng giữ lại những gì thuộc về Chúa. Việc để riêng tiền phần mười cho công việc Ngài vừa là một mạng lệnh lại là đặc ân. Luôn tự nhủ rằng những gì chúng ta có không phải của mình nhưng của Chúa là điều rất tốt. Ban cho không thật sự là mất mát đâu. Trước hết chúng ta phải biệt riêng tiền phần mười cho Chúa. Với lòng yêu Chúa, chúng ta nên dâng hiến nhiều hơn số phần mười. Chúng ta cần phải đem những món quà và tình yêu mến dâng lên cho Chúa như sự bày tỏ lòng biết ơn của chúng ta đối với Ngài.
Lòng tham tiền bạc có thể quấn lấy khải tượng của chúng ta. Nó có thể bóp méo những điều chúng ta xem là giá trị và làm yếu đi lòng sốt sắng vì Chúa của chúng ta. Chúng ta hãy thường xuyên xem xét lại thái độ của mình đối với tiền bạc bằng cách giữ mình gần gũi với Chúa và mang lấy tâm trí của Ngài.
MỘT TÁ HAY HAI
Ông Tata Ewing vừa nói vừa dứ dứ nhành ổi trước mặt chúng tôi, “Ôi, các con, những người trẻ, chẳng vâng lời Chúa gì cả. Cứ kế hoạch hóa gia đình! Kế hoạch hóa gia đình! Bộ không phải lời Chúa nói rằng ‘hãy sanh sản và làm cho đầy dẫy đất sao?’”
Chúng tôi phản đối, “Nhưng thưa ông…
Ông đập cái cây vào gốc dừa và nói, “Tôi thấy chẳng nhưng gì cả, đủ rồi đủ rồi, các con không phải là những tín hữu tốt đâu.” Ông đập cây xuống đất và quay đi lẩm bẩm trong hơi thở…
Tata Ewing là một nông dân già đã 70 tuổi. Ông sinh được mười người con và hẳn nhiên ông rất hãnh diện về thành quả này. Đối với ông, bàn bạc về việc giới hạn số lượng con cái hoặc phải có khoảng cách giữa những đứa con là chuyện hoàn toàn vô nghĩa và không thuộc linh chút nào.
Chẳng lẽ Tata Ewing không đúng sao? Mạng lệnh của DCT trong Sa 1:27 là quá rõ rồi, phải không? Không phải Vua Đavít đã la lên rằng, “Kìa, con cái là cơ nghiệp bởi Đức Giêhôva mà ra; bông trái của tử cung là phần thưởng. Con trai sanh trong buổi đang thì, khác nào mũi tên nơi tay dõng sĩ?” hay sao? Thật ra, tại sao một cặp vợ chồng Cơ Đốc nên quan tâm đến việc kế hoạch hóa gia đình?
Trước hết, chúng ta hãy xét đến bối cảnh mà Chúa truyền mạng lệnh hãy làm cho đầy dẫy người trên đất. Mạng lệnh ấy được truyền cho Ađam và Êva là hai người đầu tiên trên mặt đất trong buổi sáng tạo. Nan đề lúc bấy giờ là thiếu dân cư trên mặt đất. DCT hình dung một thế giới mà ở đó con người sẽ cầm quyền cai quản trên những tạo vật khác và hết lòng sống cho Ngài. Nhưng vì cớ sự xuất hiện của tội lỗi, những sự kiện xảy ra sau đó đã làm cản trở kế hoạch của Ngài. Tuy nhiên, mạng lệnh hãy làm cho đầy dẫy đất chỉ được ban hành trong buổi đầu tiên mà thôi.
Dầu sao đi nữa, chữ “làm đầy dẫy” theo nguyên gốc không chỉ có nghĩa là “làm cho đầy người hoặc súc vật”; nhưng nó còn có nghĩa là “làm cho hoàn hảo”, cho “tốt đẹp” và “làm cho đầy dẫy nguồn của sức mạnh và sự tốt lành.” Như thế, để giải thích Sáng Thế Ký 1:27;, chúng ta nên vượt quá ý chính chỉ gia tăng về mặt dân số mà thôi, nhưng cũng gia tăng dân số ấy với một tinh thần trách nhiệm sâu xa để đất này vẫn duy trì được sức mạnh và sự tốt lành của nó.
Nếu nan đề của thời Ađam và Êva là thiếu dân số thì đó không phải là nan đề của thời đại này. Thế giới ngày nay đang rên siết với sự gia tăng dân số vượt trội như muốn nổ tung. Văn chương của thế giới ngày nay đầy ứ những lời khuyến cáo và tiên báo nguy cơ nếu thế giới cứ tiếp tục theo đà tăng trưởng hiện hành. Việc gia tăng dân số gây nên những cơn khủng hoảng về xã hội và kinh tế, là những nan đề mà thời xưa không phải đối diện.
Một mình dân Philippine thôi đã tăng trưởng với tỷ số 3,6% mỗi năm, một trong những tỉ số cao nhất thế giới. Gần đây, các chuyên gia về dân số của Philippine đã khẳng định rằng với đà tăng dân số này, hai mươi năm nữa con số 40.000.000 hiện giờ sẽ tăng
lên gấp đôi. Thảm kịch ở đây là điều kiện về kinh tế không thể đuổi kịp. Chẳng cần tính toán chúng ta cũng biết sự không cân xứng này sẽ đem lại nghèo nàn, khổ sở và đói khát. Và đó là điều mà nhà nước chúng tôi phải làm việc cực nhọc để ngăn chận. Để nhấn mạnh đến nan đề hai mặt trên khắp thế giới này, kể từ năm 1974 người ta đã công bố Dân Số Thế Giới Hàng Năm.
Lương tâm của một CDN có tinh thần xã hội khiến người ấy phải thận trọng suy xét đến hành động của mình trong lãnh vực sinh sản để không làm ảnh hưởng đến chính dân tộc mình. Người ấy biết rõ rằng phúc lợi của xã hội Việt Nam cũng là phúc lợi của chính mình. Người ấy không chỉ là bậc cha mẹ có tinh thần trách nhiệm; nhưng còn phải là công dân có trách nhiệm nữa. Tức là một công dân có sự hiểu biết sâu xa về nan đề của xã hội mình đang sống và những trách nhiệm của cá nhân mình về vấn đề ấy. Vì thế, người ấy phải thực hiện việc kỷ luật và bày tỏ sự trưởng thành trong những quyết định của mình bao gồm việc kế hoạch hóa gia đình.
Sau cùng, Thánh Kinh trình bày rất quân bằng giữa sự tự do của Cơ Đốc Nhân với trách nhiệm của người ấy. Thật DCT đã cho chúng ta đặc ân được góp phần vào trong quá trình sinh sản. Nhưng đồng thời Ngài cũng tạo nên chúng ta như những con người có trách nhiệm và phải khai trình với Ngài về mọi hành động của mình. Việc sinh và dưỡng dục con cái cũng là một phần trong sự khai trình này.
Con cái thật sự là một phước hạnh. Nhờ con cái mà chúng ta trở nên những người tốt đẹp hơn biết bao. Chúng đem lại thật nhiều ý nghĩa cho đời sống gia đình qua những tiếng khóc điếc tai và chiếc miệng nói liên tục. Con cái dạy chúng ta tình yêu vô điều kiện, tin cậy mà chẳng cần thắc mắc, quên mình mà chỉ muốn lo cho người khác. Các cặp vợ chồng không con hiểu được nỗi đau đớn mỗi khi trở về với căn nhà trống. Quá yên lặng, quá sạch sẽ và quá ngăn nắp. Không có những vết tay dơ bẩn trên tường hay đồ chơi vung vãi dưới đất. Và dĩ nhiên cũng không có những tiếng la hứng thú xé nát không gian, “Ba về! Ba về!”
Sự tranh cãi chống lại việc kế hoạch hoá gia đình hay còn gọi là sinh đẻ có kế hoạch vẫn còn diễn tiến, xuất phát từ một tư tưởng truyền thống đã hằn sâu vào ký ức cho rằng mục đích cơ bản của hôn nhân là để quan hệ tình dục và rồi có con cái. Điều này được phản ảnh qua một thanh niên nhiệt tình, phấn khởi loan báo rằng anh và người yêu sắp lập gia đình. Tôi nói với anh, “Tuyệt quá, anh định lập những kế hoạch nào cho gia đình đây?”
“Tại sao lại không có một đứa con càng sớm càng tốt. Đó chẳng phải là mục đích của hôn nhân sao?”
Tôi thấy tội cho anh thanh niên ấy quá. Anh thật có một ý niệm hẹp hòi về cơ chế của hôn nhân. Theo cái nhìn của Kinh Thánh, hôn nhân là cái gì đó có ý nghĩa hơn là việc sinh con đẻ cái. Đó là nơi bày tỏ tình bạn. Khi DCT nhìn thấy nỗi cô đơn của Ađam, Ngài nói rằng, “Loài người ở một mình thì không tốt: Ta sẽ làm nên một kẻ giúp đỡ giống như nó.” (2:18)
Hôn nhân cũng là nơi của sự trọn vẹn. Chính trong phạm vi của hôn nhân con người đạt được sự hiệp nhất tức là sự trọn vẹn. “Bởi vậy cho nên người nam sẽ lìa cha mẹ mà dính díu cùng vợ mình, và cả hai sẽ nên một thịt.” (2:24). Chủ đề chính của sách Nhã Ca là kinh nghiệm quí báu về sự tái hiệp một của những người yêu nhau và sự dằn vặt của nỗi đau bị phân cách.
Mục đích của hôn nhân còn là sự khoái lạc nữa. Có một niềm vui lớn lao trong sự chia xẻ sâu đậm giữa hai tấm lòng, tâm trí và thân xác của vợ chồng. Bên cạnh tư tưởng cho rằng quan hệ tình dục là mục đích để có con cái, nó còn là một phần của niềm khoái lạc trong hôn nhân. Đối với người nữ, DCT tuyên bố rằng, ”…dục vọng ngươi phải xu hướng về chồng” và đối với người chồng, những người khôn ngoan được Chúa hà hơi đã nói, “Hãy ở vui vẻ cùng vợ mình yêu dấu…” (Tr 9:9)
Sinh sản là một trong những mục đích vừa kể trên của hôn nhân. Điều chúng ta phải hiểu một cách rõ ràng là Kinh Thánh không nói sanh sản là mục tiêu tối hậu của hôn nhân. Tình dục trong hôn nhân mang nhiều chức năng hơn là mục đích thêm một bé nữa vào một gia đình đã đông đảo. Đó là cách để khẳng định tình yêu. Cũng có thể là cách bày tỏ sự trọn vẹn. Và đôi khi mối quan hệ này chỉ là niềm vui được có nhau.
Hôn nhân được nhìn theo quan điểm này sẽ trở nên thú vị hơn và đầy đủ ý nghĩa hơn. Quan điểm này cũng buộc chúng ta đi đến chỗ quyết định rằng con cái được sinh ra vì cớ chúng ta muốn sinh chúng, chứ không phải vì sự giao hợp của vợ chồng. Những cặp vợ chồng Cơ Đốc phải ghi nhớ rằng họ được DCT tin cậy để làm người quản lý con cái mình. Vì chúng là phước hạnh Chúa ban cho, nên chúng cũng là trách nhiệm mà bậc Cha mẹ phải xem xét để dầu có một con hay nhiều con thì trong gia đình chúng đều phải được chăm sóc một cách phải lẽ về thức ăn, quần áo, học hành và được huấn luyện để trở thành những công dân ích lợi của xã hội và những chứng nhân của Đấng Christ nữa.
Lời phân tích sau cùng là DCT cho chúng ta quyền lựa chọn. Việc sinh con trong tinh thần trách nhiệm làm vinh hiển danh Chúa hơn là sanh ra cả tá mà chẳng hề suy nghĩ hoặc kiểm soát. Lời nhắc nhở của Phao lô “dầu anh em hoặc ăn, hoặc uống hay là làm sự chi khác hãy vì sự vinh hiển của DCT mà làm” cũng bao gồm luôn cả việc xử lý vấn đề tình dục trong hôn nhân với tinh thần trách nhiệm. Cuối cùng, mối quan hệ này chỉ là một trong nhiều sinh hoạt khác nữa mà các cặp vợ chồng trong hôn nhân tham dự vào.
KỶ LUẬT CON CÁI LẪN CHA MẸ
Kỷ luật là một từ ngữ thông dụng ngày nay. Vì cớ một ngày mai tiến bộ, hiệp một và tốt đẹp hơn. Điều ấy được bắt đầu từ đơn vị nền tảng của xã hội là gia đình. Những người nam người nữ lấy DCT làm trung tâm, được sự hướng dẫn từ bên trong, có khả năng thích nghi, nhạy bén đối với hoàn cảnh chung quanh không phải là những người lớn lên trong khoảng không không đâu. Nhưng họ được lớn lên trong mái ấm, là nơi bậc cha mẹ hết sức nhạy bén đối với vai trò làm gương cho con.
Trong bất cứ mái ấm nào ý thức được giá trị của mình, kỷ luật đều là vấn đề bắt buộc. Nơi đâu có những bậc phụ huynh Cơ Đốc, thì việc kỷ luật không chỉ vì những áp lực của xã hội, nhưng còn là mạng lệnh của Thánh Kinh. Vua Salômôn là người tin kính, lại là người khôn ngoan đứng về mặt thế gian này đã làm đầy dẫy trong sách của ông với những lời nhắc nhở cha mẹ, “Hãy sửa phạt con ngươi, thì nó sẽ ban sự bình tịnh cho ngươi, và làm cho linh hồn ngươi được khoái lạc. Người nào kiêng roi vọt, ghét con trai mình, song ai thương con ắt cần lo sửa trị nó. Hãy sửa phạt con ngươi trong lúc còn hi vọng. Nếu không ngươi sẽ làm hỏng cuộc đời nó. Hãy dạy trẻ thơ con đường nó phải theo, dầu khi nó trở về già cũng không hề lìa khỏi đó.” (Ch 29:17; 13:24; 19:18 22:6)
Kỷ luật là một bằng chứng cho thấy chúng ta yêu con cái. Cách đây vài năm, tôi là nhân chứng của cuộc đối chất đau lòng giữa cha mẹ và cậu con trai nọ. Cha mẹ đến trường sau khi nghe báo tin con đã bị đuổi học vì đang bị ảnh hưởng của ma túy. Bà vợ phản đối, “Bà không biết rằng ngôi trường này là nguồn hi vọng sau cùng để nó được cải thiện hay sao? Chúng tôi đã làm tất cả những gì mình có thể làm. Đã cho nó bất cứ thứ gì nó muốn.” Và cuối cùng bà hỏi cách tuyệt vọng “Ôi Chúa, chúng con đã thiếu sót chỗ nào?”
Đứa con đưa mắt nhìn mẹ lạnh lùng. “Vâng mẹ đã làm tất cả mọi sự và đã cho con mọi thứ. Nhưng mẹ không bao giờ yêu con. Mẹ không bao giờ quan tâm đến con. Tại sao mẹ lại cho phép con đi con đường này và bây giờ kêu la thì quá trễ rồi! Tại sao mẹ lại làm như vậy?” Thật quá đau lòng khi chứng kiến một cảnh tượng như thế.
Đúng vậy. Tình yêu không bao giờ đồng nghĩa với bỏ mặc. Không bao giờ yêu thương con mà lại bận rộn quá đến nỗi không chăm sóc con được. Vì đó là những “lợi nhuận” mà bậc làm cha làm mẹ có được hay đạt được nếu họ bỏ mặc cho con cái tự xoay xở, lo liệu lấy mà chẳng hề kiểm tra hoặc sửa sai. Chúng ta có nên tin rằng một số con trai của các vị Mục sư đang nằm sau chấn song của nhà tù không? Rồi những vị lãnh đạo Cơ Đốc mà chúng ta rất kính nể lại có các cô con gái hư hỏng? Có lẽ nào trong sự sốt sắng nhiệt tình rao giảng Tin lành cho những người hư mất, chúng ta lại mang lỗi lầm vì đã đánh mất chính người thân yêu nhất đời mình? Vì cớ tầm quan trọng tối hậu mà chúng ta phải bước đi theo quan điểm của DCT trong lãnh vực này.
Đối với các bậc phụ huynh Cơ Đốc, mục tiêu của việc kỷ luật con cái phải vượt lên trên những sự sửa sai về cung cách chỉ mang tính xã hội mà thôi. Nhưng việc kỷ luật ấy phải lấy mạng lệnh của Chúa làm trọng tâm, “Ngươi hãy hết lòng, hết linh hồn, hết sức, hết trí mà kính mến Chúa là DCT ngươi, ấy là điều răn thứ nhất và lớn hơn hết.” Mat
22:37. Nói cách khác, DCT phải là trung tâm của sự dạy dỗ của chúng ta. Chúng ta kỷ luật để làm phát triển nơi con cái lòng yêu kính Đấng Christ. Để kết thúc phần giải thích của mình, Eugene Nida trong quyển Sứ Giả và Sứ Điệp, trang 261 nói rằng, “cung cách đã được sửa sai vẫn chưa phải là cung cách thật cho đến chừng cung cách ấy tập trung vào DCT, vì sau hết DCT phải là nguyên nhân cơ bản của hành vi ấy.”
Uốn nắn con cái trở nên người yêu mến Chúa và vâng lời Ngài là điều rất khó. Với tư cách là bậc cha mẹ Cơ Đốc, tôi luôn luôn đòi hỏi con cái phải vâng lời tức khắc. Dầu chúng có nghĩ gì hoặc cảm nhận như thế nào về tôi, điều quan trọng là chúng phải thực hiện điều tôi bảo và làm thật nhanh chóng. Nhưng điều DCT mong muốn nơi chúng ta thì không phải như vậy. Tình trạng và ý định của một người quan trọng hơn nhiều so với những gì chúng ta nhìn thấy nơi họ. Đối với Chúa, tình trạng của một người cơ bản hơn nhiều so với công việc của người ấy.
Các nhà xã hội học đã chỉ ra rằng về mặt văn hóa, chúng ta là những con người xem trọng các giá trị xã hội như xấu hổ, yêu mình, ao ước làm đẹp lòng người khác. Xét về xã hội, bao lâu còn chưa bị mất mặt thì người ta vẫn xem một hành vi vô luân nào đó là điều có thể tha thứ. Về mặt truyền thống, người Philippine sẽ làm mọi cách để chuộc lại niềm kiêu hãnh đã bị tổn thương. Đó là khi một người trong gia đình làm điều gì khiến chúng ta phải kinh hoàng, không kinh hoàng lắm vì hành động vô luân hoặc tội lỗi ấy đâu, nhưng vì tưởng tượng đến điều mà thiên hạ sẽ đồn đại. Và vì thế chúng ta rất thường nghe câu nói, “Bộ mày không xấu hổ hả? Rồi người ta sẽ nói gì đây?” Nếu chúng ta buộc con cái phải hành xử tốt đẹp chỉ để được quần chúng chấp nhận mà không nhấn mạnh đến mục đích làm thấm sâu trong chúng thái độ yêu thương và tôn kính Đấng Christ, chúng ta đã thất bại trong việc kỷ luật.
Việc kỷ luật cũng phải mang tính cá nhân. Công việc ấy phải vì lợi ích của chính đứa trẻ, như Vua Salômôn nói để cuộc đời nó không bị hủy hoại. Điều chúng ta quan tâm là chính phúc lợi của đứa trẻ, nghĩa là vì cả con người của trẻ chứ chẳng phải vì những gì hàng xóm xầm xì. Vì kỷ luật theo đúng thực chất của nó là một sự huấn luyện những năng lực của tâm trí, đạo đức, tâm linh và thuộc thể của một người một cách có hệ thống. Thật ra, tự đặt mình vào một công tác như thế quả là một trách nhiệm trọng đại.
Chúng ta làm cho sự dạy dỗ thấm nhuần vào một đứa trẻ bằng cách nào đây? Có rất nhiều cách để dạy dỗ. Một số cách chúng ta làm cách có ý thức. Nhưng có những cách chúng ta thực hiện mà vẫn không biết rằng mình đang dạy dỗ chúng. Nói chung, cha mẹ kỷ luật con cái theo ba cách khác nhau: 1) Bằng cách làm gương, 2) bằng lời nói và sự chỉ dẫn và thứ 3) bằng cách sửa phạt.
- Kỷ luật bằng cách làm gương.
Lần nọ, một bà mẹ nhiếc móc cậu con mười tuổi vì đã đi đóng một đôi giày trên hai trăm ngàn. Nhưng đứa con trai chống đối, “Nhưng mẹ mới vừa mua một cái Tivi để xài riêng, nó còn mắc hơn đôi giày của con nhiều. Còn cái Tivi cũ mẹ định làm gì?” Bà mẹ ngồi trong góc phòng vừa cười lớn vừa búng tay, “Thôi, thôi đừng làm triết gia nữa.”
Hay khi thấy ông cha muốn dạy đứa con bốn tuổi tính siêng năng bằng cách bảo nó hãy giúp mẹ dọn cơm. Thằng bé lý luận, “Nhưng còn ba thì sao?”. Ba nó hay nằm dài trên giường cả nửa ngày mà chẳng làm gì cả.
Cách sống của chúng ta, những điều chúng ta xem là ưu tiên, những gì chúng ta nuôi dưỡng hay thường xuyên bàn bạc sẽ phản ảnh những giá trị về đạo đức và tâm linh của chúng ta nhiều nhất. Và chúng ta thường hay truyền đạt những điều này lại cho con cái một cách vô ý thức. Đây là chỗ mà chúng ta bộc lộ sự mâu thuẫn của mình. Các bậc phụ huynh Cơ Đốc thường hay nói về những giá trị và nguyên tắc đạo đức của Kinh Thánh nhưng trong đời thường thì lại bám víu vào những tiêu chuẩn của thế gian. Bậc cha mẹ nào hay có tánh phóng đại, hay quan trọng hóa vấn đề thường có những đứa con khoe khoang và xem mình là nhất. Giống như một bé gái ưỡn ngực giữa đám bạn cho rằng chúng kém may mắn hơn nó và nói: “Mẹ tao nói tụi bay là một bầy vịt xấu xí, chỉ có một mình tao là đẹp nhất.” Vừa tức cười vừa thấy bi thương vì thật ra nó chỉ là một đứa rất thường.
Dầu sao đi nữa, con cái vẫn soi mình vào chúng ta. Và chúng ta không thể nào trốn thoát được. Tinh thần ham muốn vật chất của chúng ta, sự tham lam, cách cư xử không hay đối với người khác, hoặc một tinh thần yêu thương, vẻ bình thản, sự kiên nhẫn của chúng ta…bất cứ điều gì chúng thấy nơi chúng ta đều theo bản năng mà phản ảnh lại qua thái độ và cách cư xử của chúng. Trừ khi chúng đã có một đời sống kinh nghiệm Chúa riêng tư rất sâu đậm còn không thì chúng sẽ sống giống y như chúng ta đã sống vậy.
Sứ đồ Phao Lô nói trong IICo 2:15 rằng, “Vì chúng tôi ở trước mặt DCT và mùi thơm của Đấng Christ ở giữa kẻ được cứu và ở giữa kẻ bị hư mất”. Và anh em là bức thư của Đấng Christ…” Kỷ luật cao trọng nhất mà chúng ta có thể dạy con cái là chính đời sống của mình. Cách tốt nhất để kỷ luật con cái là dạy chúng bằng chính đời sống có kỷ luật của chúng ta. Không có hình thức ghi khắc tinh thần tin kính nào bền lâu và sâu xa cho bằng một đời sống Cơ Đốc được bày tỏ. Ba năm nhận biết Chúa và nhìn xem cách Ngài giải quyết những nan đề hằng ngày đã rèn luyện các môn đồ trở nên giống như Ngài. Khi lấy Đấng Christ làm gương mẫu và quan tâm nhiều hơn đến cách sống của mình trước mặt con cái, chúng ta sẽ trở nên những bậc cha mẹ tốt đẹp hơn.
2. Kỷ luật bằng lời nói và sự chỉ dẫn.
Lời nói thật có sức mạnh rất lớn. Nhưng nếu xuất phát từ một đời sống vững vàng, lời nói sẽ có sự khuất phục càng hơn. Hầu hết các bậc cha mẹ tại Philippine đều có tài giảng hay. Đây là điều mà chúng ta không nên xao lãng. Con cái cần được dạy dỗ và nhắc đi nhắc lại mãi về những điều cao trọng, tốt đẹp và đúng đắn. Tuy nhiên, lời dạy dỗ không chỉ đến sau khi con cái làm điều sai quấy mà thôi. Kỷ luật bằng cách nhắc nhở đến một đời sống tin kính là phương cách rất phong phú nếu bậc cha mẹ chịu để ý đến những gì đang xảy ra chung quanh họ mỗi ngày.
Có lần một thằng bé bảy tuổi che mặt với vẻ bất mãn khi ngồi vào bàn ăn và kêu lên, “Mẹ ơi, lại cà tím nữa!” Nó ghét loại rau đậu này lắm đến nỗi có thái độ cầu nguyện hết lòng mỗi khi thấy trong giỏ đi chợ của mẹ không có cà tím.
Mẹ nó hỏi một câu về sự kiện trong đời sống hàng ngày, “Con có biết nước Biafra nằm ở đâu không? Thằng bé ngẩng mặt lên và hỏi, “Để làm gì vậy mẹ?”
Mẹ nó trả lời, “Đó là một nước đang có chiến tranh ở bên Châu Phi, và con có biết điều gì đang xảy ra cho vô số con nít ở bên đó không?”
Dạ con không biết, mẹ kể cho con nghe chuyện đó đi.”
Vâng, chúng nó đang bị chết dần chết mòn. Chúng rất ốm, chỉ có da bọc xương mà thôi và cái bụng thì thật bự.”
Mắt nó mở lớn và miệng hả ra, “Tại sao vậy mẹ?”
“Vì chúng không có đủ cà tím để ăn. Vì chiến tranh nên ba mẹ chúng không thể trồng cà được. Họ còn phải bỏ nhà chạy vì đôi bên đánh nhau nữa. Con không nghĩ rằng Chúa Jêsus thật quá tốt lành khi Ngài cho chúng ta có cà tím, cá và cơm để ăn sao? Mẹ nghĩ bây giờ đến phiên con cầu nguyện.”
Không những thằng bé tạ ơn Chúa vì đã ban cho nó cà tím nhưng còn cầu nguyện cho những đứa bé bụng bự nữa. Và hôm ấy nó ăn nhiều cà tím. Từ đó trở đi, nó vẫn ăn cà tím mặc dầu không thích lắm.
Thay vì phê phán, la mắng con cái nặng nề, các bậc cha mẹ nên bày tỏ lòng khen ngợi khi con cái đạt được điều gì đó, dầu chỉ là những việc nhỏ thôi. Ban thưởng hoặc khích lệ chúng với lời khen ngợi chân thật sẽ giúp chúng rộng lượng với người khác. Ngoài ra, cách dạy dỗ con như thế còn giúp chúng khôn lớn và tự tin vào chính mình nữa. Ch 17:24 nói rằng việc kỷ luật bằng những lời nói dịu dàng, tử tế có sức mạnh kinh khủng. Chúng ta nên thường xuyên dùng cách này hơn là sử dụng tật nói dai và la hét chỉ đem đến chứng cao áp huyết và đau tim.
Việc kỷ luật bằng lời nói và dạy dỗ con cái phải được xem là điều tự nhiên trong đời sống. Nó phải xảy ra như một chuyện bình thường hàng ngày. Trong Phu 6:4-7, chúng ta có lời hướng dẫn dành cho cha mẹ, “Hỡi Ysơraên hãy nghe, Giêhôva DCT chúng ta là Giêhôva có một không hai. Ngươi phải hết lòng, hết ý, hết sức kính mến Giêhôva DCT ngươi. Các lời mà ta truyền cho ngươi ngày nay sẽ ở tại trong lòng ngươi, khá ân cần dạy dỗ điều đó cho con cái ngươi, và phải nói đến, hoặc khi ngươi ngồi trong nhà, hoặc khi đi ngoài đường, hoặc lúc ngươi nằm, hay là khi chổi dậy.”
3. Kỷ luật bằng hình phạt
Cũng giống như nhiều Mục sư khác, một Mục Sư cao tuổi đã sốt sắng canh giữ những hình ảnh ở nơi công cộng của ông thời niên thiếu. Có nghĩa là ông giới hạn con cái vào những sinh hoạt có thể tạo chúng theo những hình ảnh ấy. Tuy nhiên, cậu út của ông không phải là đứa dễ bị phỉnh dỗ hay dọa nạt Vị Mục sư cao tuổi này nói, “Khi thằng con út của tôi còn nhỏ, chỉ có cái lưỡi của nó là không bị bầm dập mỗi khi bị ăn đòn mà thôi. Nhưng bất chấp việc kỹ luật của tôi, nó là cái mụt nhọt nhức nhối của gia đình.” Con ông chống đối tất cả những gì có dính dáng đến ông. Nó sống cuộc đời trụy lạc khiến ông phải bị đau đớn cực độ.
Đối với nhiều bậc phụ huynh tại Philippine, khi nói đến kỷ luật là họ nghĩ ngay đến một sợi dây nịt hay một cây roi cầm trên tay, một cú đá vào mông, béo tai, mắng nhiếc cùng với một cơn giận điên người. Rủi thay, kỷ luật là điều còn cao trọng hơn sự cướp đoạt vô tình như thế về phía cha mẹ. Hơn là trút giận lên con vì mới cãi lộn với vợ hoặc chồng. Hoặc chúng ta bực bội vì cuộc viếng thăm của nhà chồng. Hay vì không được ngủ thẳng giấc. Chúng ta phải phạt con cái với mục đích muốn sửa sai chúng, nghĩa là đặt con trẻ vào một đường hướng đúng đắn. Đôi khi con trai tôi đến hỏi tôi, “Mẹ ơi, tại sao hôm qua mẹ đánh con?” Thật sự là tại sao? Tôi chẳng còn nhớ lý do, cả con tôi cũng vậy. Việc đánh đòn của tôi với tất cả sức mạnh đã chẳng dạy được nó bài học gì.
Tuy nhiên, chúng ta không có ý nói rằng roi vọt không còn ích lợi nữa. Bậc cha mẹ nào thật sự yêu thương con cái mình nên thường xuyên dùng roi vọt nếu thấy cần thiết và phải dùng một cách khôn ngoan. Vua Salômôn nói rằng, “Những thương tích và dấu vít làm cho sạch điều ác, roi vọt thấm vào nơi kín đáo của lòng. Vì sự ngu dại vốn buộc vào lòng con trẻ, song roi răn phạt sẽ làm cho sự ấy lìa xa nó. Vì thật ra “roi vọt và sự quở trách ban cho sự khôn ngoan, còn con trẻ phóng túng làm mắc cỡ cho mẹ mình.” Ch 20:30 22:15 29:15.
Nếu chúng ta tin rằng việc kỷ luật là nhằm ích lợi cho một người cách toàn diện thì chúng ta nên bắt đầu công việc ấy khi trẻ còn nằm nôi. Đứa trẻ nào không được dạy dỗ ý nghĩa của những từ “không” và “đừng” vào những ngày đầu đời, sẽ là một đứa trẻ khó được chấp nhận khi nó lớn hơn một chút. Một số bậc phụ huynh nói rằng con trẻ một tuổi thì biết gì, cho nên chúng được phép làm bất cứ thứ gì chúng muốn. Nói như vậy là không đúng. Một đứa bé có thể hiểu được rất nhiều thứ. Chẳng hạn như tại sao một đứa bé ngừng khóc khi bạn bế nó lên và lại gào khóc khi bạn thả nó xuống? Điều này chứng tỏ đứa bé được nuôi dưỡng đầy đủ, khỏe mạnh, mỗi lần tả ướt thì được thay…Thông thường, nó làm như vậy vì nó biết chắc bạn sẽ phản ứng như thế nào. Vì thế, thói quen đòi bồng ẵm trở thành căn bệnh đau lưng cho hầu hết các bà mẹ.
Nhiều nhà tâm lý trẻ con tin rằng sáu năm đầu đời của một đứa trẻ là giai đoạn quan trọng nhất. Hầu hết những thói quen, sự suy nghĩ, cách thưởng thức và điều chúng cho là có giá trị được hình thành trong những năm này. Đây là những năm mà cha mẹ nên dành sự chú tâm đặc biệt nhất đến cách nuôi dưỡng con cái.
Trở lại với vấn đề thực tế, chúng ta thắc mắc: Vậy những lãnh vực kỷ luật nào giúp gây ấn tượng sâu đậm nơi một đứa trẻ trong khi nó còn dễ tiếp nhận và dễ uốn nắn? Để trả lời cho câu hỏi này có lẽ chúng ta cần xem cách nuôi dạy con cái giữa những bậc cha mẹ Philippine theo sự quan sát và nghiên cứu của các nhà nhân chủng học và xã hội học. Mặc dầu chúng ta không thể nói chung rằng tất cả những quan sát dưới đây đều đúng với các bậc phụ huynh Á Châu, nhưng ít nhất chúng ta cũng biết chắc rằng một vài đặc điểm dưới đây phản ảnh khuynh hướng chung của nhiều gia đình Á Châu. Một cuộc nghiên cứu về gia đình người Philippine đã nói rằng:
Những đứa trẻ trong khu vực nói tiếng Tây Ban Nha, được nuôi dưỡng trong không khí yêu thương và bảo bọc, nuông chìu và ở dưới uy quyền của cha mẹ đặc biệt trong những năm chúng còn bé. Tôn trọng người trên mình là một đức hạnh được ghi khắc sâu
đậm…Cha mẹ mong muốn trẻ phải yên lặng và biết thuận phục hơn là muốn chúng tháo vát và nắm quyền…Đứa trẻ ít bị buộc phải thành công trong công việc, chẳng hạn như phải phát triển những kỷ năng đặc biệt hoặc được đo lường theo những tiêu chuẩn thực hành chính xác…Nếu chúng tích cực thực hiện những công việc mới mẻ sẽ bị nản chí: đứa nào thử nhưng gặp thất bại sẽ bị la rầy vì đã không nhờ người lớn giúp đỡ.
Một điều nữa đáng để cho các bậc phụ huynh Cơ Đốc phải lưu ý cách đặc biệt là: “Đứa trẻ cũng học biết rằng người lớn chẳng đáng tin cậy chút nào, những hứa hẹn của họ chẳng qua chỉ là những lời nói vẽ vời cho đẹp lòng người khác chứ thật ra rất ít dính dáng đến việc làm.”
Hẳn nhiên từ sự nghiên cứu ở trên, chúng ta có thể thấy rằng các bậc cha mẹ có những mặt mạnh cũng như những mặt yếu khi bàn đến vấn đề kỷ luật con cái. Chẳng hạn như việc nhấn mạnh đến sự tôn trọng và vâng lời được dạy dỗ với những mục đích hợp lý không phải chỉ làm đẹp lòng người khác về mặt xã hội nhưng đó còn là sự dạy dỗ lành mạnh của Kinh Thánh. Yêu thương và bảo bọc con cái là bản năng mạnh mẽ của bậc cha mẹ ở khắp mọi nơi.
Tuy nhiên, có những lãnh vực trong việc dạy dỗ con cái cần được thay đổi. Những điều sau đây rất đáng để chúng ta xem xét:
- Dường như có một nhu cầu cần nhấn mạnh đến tính độc lập và tích cực nơi con cái chúng ta. Điều này trở thành quan trọng hơn khi chúng ta suy xét đến những bậc phụ huynh hay có khuynh hướng quá bảo bọc con từ khi chúng còn nhỏ. Tuy nhiên, đồng thời cha mẹ lại tò mò mong đợi con cái có thể hành động và tự quyết định một khi chúng đã đến tuổi trưởng thành.
Khả năng thực hiện những sự chọn lựa và hành động độc lập bắt đầu khi một người còn rất nhỏ. Chúng ta có thể làm thấm nhuần quan điểm này trên con trẻ bằng cách cho phép chúng tự lựa chọn những điều không ảnh hưởng đến sự xáo trộn, bình an và thứ tự của gia đình. Cho trẻ tự tắm và tự làm vệ sinh, cho nó tùy ý chọn lựa quần áo, trò chơi, tự do sử dụng số tiến mà bạn cho nó, hoặc muốn đeo đuổi những sở thích nào cứ tùy ý… là một số lãnh vực mà bạn tập cho con cái tự lập. Cha mẹ không cần phải xen vào từng chi tiết nhỏ nhặt trong đời sống con cái. Chúng ta nâng cao sự phát triển nhân cách bằng cách cho chúng một số tự do nào đó để chúng thấy rằng chúng là một con người thật.
Có lần cậu con bốn tuổi của tôi đem về nhà một lon sắt rỉ sét hoen ố đựng nòng nọc trong nước bùn đen ngòm. Nó đặt cái lon quí ấy lên đầu tủ quần áo và không muốn ai động đậy vào hoặc dời chỗ vì sợ rằng những con nòng nọc sẽ không biến thành ếch. Tôi không muốn nhìn vào mà cũng chẳng muốn quan tâm đến cái lon ấy. Từng ngày cậu con tôi cứ loan báo bao nhiêu con đã bị chết và thương tiếc cho từng con. Nếu không thấy cái lon ấy là thân thương và quan trọng đối với cậu con chắc tôi đã vứt nó từ lâu. Tôi nghĩ tốt hơn là nó cũng tự khám phá được một số điều. Cuối cùng thì hai tuần lễ sau chúng tôi cũng ném lon ấy khi những con nòng nọc đã chết hết.
Qua kinh nghiệm và quan sát, tôi khám phá ra rằng những trẻ nào tự chế đồ chơi cho chúng sẽ vui thích với những món ấy hơn là đồ chơi mua ngoài chợ. Cũng giống như
những bé trai khác, mấy đứa con trai của tôi rất mê chơi trò “chiến tranh”. Ban đầu chúng tôi mua cho chúng mấy khẩu súng lục bằng nhựa có cả bao súng. Nhưng không giữ được lâu, vì chúng tò mò về những máy móc bên trong nên đã tháo ra thành nhiều mảnh và không bao giờ chịu ráp lại. Vợ chồng tôi bảo chúng nên tự chế súng nếu muốn chơi trò “chiến tranh”. Ba chúng cho chúng mượn nào là cưa, búa, một mớ gỗ thừa và mấy cây đinh đã dùng rồi. Mấy đứa con trai chăm chỉ mày mò chế tạo đồ chơi không nghỉ tay chút nào. Trong hai ngày chúng chẳng làm gì cả ngoài việc chế tạo súng ngắn súng dài đủ cỡ đủ loại. Sau đó, căn nhà tôi trở thành kho chứa vũ khí đạn dược cho tất cả những đứa trẻ chung quanh trong một thời gian dài. Mỗi lần công bố có “chiến tranh” là lũ chúng ùa vào nhà tôi để lấy vũ khí. Sau chúng lại bắt đầu chán và tặng nhà bếp để làm củi. Tuy nhiên, điều tốt nhất là chúng vẫn còn rất cảnh tỉnh khi có một “cuộc chiến” nữa xảy ra.
Không biết vì sao mà trẻ con có vẻ chẳng quan tâm đến vẻ đẹp hoặc sự khéo léo của những món đồ chơi của chúng. Nhưng điều quan trọng hơn chính là sự hấp dẫn của những món đồ chơi do chúng tự sáng tạo và chúng cảm nhận những món ấy thật sự thuộc về mình. Tôi nghĩ rằng các bậc cha mẹ đã sai lầm khi cho rằng càng mua cho con nhiều đồ chơi thì càng làm cho chúng hạnh phúc hoặc thỏa lòng. Không phải như vậy đâu. Trẻ con thấy vui thích nơi những món đồ chơi mà chúng được dự phần vào và thật sự gọi là của chúng. Không gì có thể so sánh với những món đồ chơi chúng tự chế cả. Mua cho chúng một bộ đồ nghề sẽ rất ích lợi cho chúng về lâu về dài trong việc phát triển tính tích cực, tính sáng tạo và tinh thần tiết kiệm.
2. Tính siêng năng chăm chỉ trong công việc là một yếu tố khác mà chúng ta cần dạy cho con cái. Chúng ta có thể làm điều này bằng cách sắp xếp chúng thành những thành viên trong đội làm việc tại nhà. Thỉnh thoảng treo một bảng phân chia công việc ở một chỗ mà ai cũng thấy được chỉ để gây ấn tượng nơi con trẻ rằng mọi người trong nhà đều phải làm việc cũng là điều rất khôn ngoan. Thấy hoặc biết rằng tên mình được liệt kê trên bảng danh sách cũng làm cho chúng hãnh diện vì mình thuộc về gia đình này và đã lớn đủ để được kể tên.
Chúng ta có thể dạy dỗ một đứa bé ở tuổi vườn trẻ tập tành làm một số việc trong nhà. Chúng có thể giúp mẹ dọn cơm, lau chùi bụi ở những chỗ nào chúng với tới, nhặt đồ chơi, dọn giường, lượm rác, tưới nước vài chậu kiểng và nhiều việc nhỏ nhỏ khác.
Một đứa bé lớp tiểu học có thể được giao cho những công tác thích hợp với tuổi, khả năng và những gì có sẵn nơi chúng. Chúng có thể giúp mẹ rửa chén bát trong những ngày nghỉ học, lau bàn, giặt vớ và khăn tay, tự đánh giày, tự chuẩn bị quần áo cho những ngày đi học, quét nhà, làm việc ngoài vườn hoặc gom củi lại để nhà bếp dùng. Tuy nhiên, chúng ta hãy thử giao phó cho con cái những công việc mà chúng có thể làm tốt trong một thời gian hợp lý, và không đòi hỏi sức lực hoặc sự kiên nhẫn của chúng cách quá đáng. Nếu không làm như thế, chúng sẽ bị giới hạn, bị nản lòng và sẽ suy nghĩ đến công việc như những sinh hoạt chán ngắt.
Chỉ định cho con một công tác nhất định không những làm cho chúng thấm nhuần tinh thần trách nhiệm và giá trị của chính mình mà cùng lúc ấy chúng ta còn có thể nuôi dưỡng một sự hiệp tác trong gia đình. Là cha mẹ chúng ta phải làm gương cho con cái
trong việc thực hiện công việc cách hết lòng và tinh thần vui vẻ. Một bà mẹ hay than van, lúc nào cũng thực hiện công việc nhà với những lời lằm bằm không thể trông mong con mình có tấm lòng vui thỏa trong công việc được.
Cha mẹ cũng có bổn phận làm cho con cái cảm nhận rằng sự góp phần của chúng trong công việc là điều quan trọng và có giá trị. Như tôi có nói, dầu đối với trẻ con hay người lớn chúng ta không bao giờ nên hà tiện lời khen và sự tán thưởng về hành động yêu thương mà người thân yêu đã thực hiện cho chúng ta.
3. Dạy dỗ con cái biết sử dụng những thì giờ nhàn rỗi cách khôn ngoan là một lãnh vực mà hầu hết các bậc phụ huynh đều lơ là hoặc bỏ mặc. Khi con cái chúng ta có giờ nhàn rỗi, chúng sẽ đi đâu và làm gì? Chúng ta có biết không? Những bậc cha mẹ quá bận rộn thường chẳng biết đến.
Giữ con ở trong nhà là một khuynh hướng đang lan rộng của những bậc phụ huynh có khả năng mua một bộ ti vi. Nhưng đây không phải là cách dạy dỗ con cái sử dụng thì giờ nhàn rỗi. Các bậc phụ huynh là Cơ Đốc Nhân phải nhận biết rằng hầu hết những lời dạy dỗ về đạo đức mà chúng được thâu nhận trong 30 phút của giờ lễ bái gia đình sẽ bị quên lãng cách dễ dàng và không muốn thực hành chỉ vì một buổi chiều thoải mái được xem những chương trình Tivi khiêu dâm, phim hung bạo, tội ác hoặc hài kịch rẻ tiền.
Vì thế, trong những gia đình có ti vi, cả cha mẹ và con cái cần phải đồng ý với nhau về thời lượng cũng như những chương trình mà con cái được xem. Sự thật là không phải chương trình nào của tivi đều gây một ấn tượng lành mạnh và tốt đẹp nơi con trẻ. Vì thế, cha mẹ nên lựa chọn cho con là điều khôn ngoan hơn.
Trong những gia đình không có sự chọn lựa cẩn thận thì sự rối reng sẽ cùng xảy đến khi mua chiếc Tivi. Cả gia đình không còn ngồi quanh bàn trong giờ cơm để trao đổi những câu chuyện hoặc kinh nghiệm trong ngày. Mỗi người tự bưng một tô cơm, miệng nhai nhóp nhép cách lơ là, mắt dán chặt vào màn ảnh . Lúc ấy gia đình có đang tồn tại hay không cũng chẳng biết. Có đứa còn chẳng thèm ăn cho đến khi chương trình mà nó ưa thích được chấm dứt. Cải vã nhau vì chương trình mình đang xem là điều bình thường.
Nếu Tivi là để dùng trong những thì giờ nhàn rỗi, giải trí và nhận thông tin, thì chúng ta nên dùng nó vào những giờ chúng ta nhàn rỗi và những khi muốn biết tin tức. Nó phải phục vụ chúng ta chứ đừng để chúng ta làm nô lệ cho nó. Tivi làm mê hoặc khiến người ta có khuynh hướng lười biếng và muốn ngồi không. Những bậc cha mẹ siêng năng sẽ không thích phát triển những tâm tánh như thế nơi con cái mình.
Còn xinê thì sao? Trong một số gia đình, việc giải trí bằng cách đến những rạp chiếu bóng là chuyện bị gạt phăng khỏi cần bàn. Họ không tin rằng phim ảnh có một chút giá trị nào đối với Cơ Đốc Nhân. Tuy nhiên, những gia đình khác thì xem tivi trên nền tảng chọn lọc và nó là một phần của sự giải trí của gia đình. Nếu chúng ta cho phép con cái mình xem xinê, thì điều quan trọng là chúng chỉ được xem vào những thì giờ nhất định và phải được dạy dỗ cách chọn lựa phim ảnh.
Đọc những sách hay là một trong những cách khôn ngoan nhất trong việc sử dụng thì giờ nhàn rỗi. Trong một nền văn hóa chỉ thích hướng về những điều trông thấy được như
chúng ta, làm quân bằng nền giáo dục của con cái bằng cách khích lệ chúng đọc sách là điều rất quan trọng. Một cách để thực hiện công việc này là chúng ta bày sẵn ra những quyển sách khiến chúng phải quan tâm. Nếu nơi chúng ta ở có một thư viện công cộng, nên dành thì giờ làm quen với những sách vở ở đó và xem thử sách nào có giá trị đối với con cái chúng ta. Mấy đứa nhỏ xíu thì không cần phải tập tành thú vui đọc sách. Luôn luôn chúng có thể bắt đầu bằng cách xem hình.
Lâu lâu cũng nên tuyên bố một kỳ nghỉ hấp dẫn cho cả gia đình. Nguyên một ngày trên những ngọn đồi, bên bờ biển hoặc tại một nông trại nào đó sẽ cho con cái có những kinh nghiệm và ký ức thú vị. Những gia đình ở thành phố thì nên đi thăm viếng những khu vực lịch sử, những hội chợ về văn hóa nghệ thuật hay những cuộc trưng bày vừa hay vừa mang tính giáo dục. Điều tốt nhất mà những cơ hội như thế đem lại cho chúng ta là một tâm trí giản xả và niềm vui thích sinh động. Nhưng thông thường, cha mẹ là người phá hỏng niềm vui của con vì chính những thái độ căng thẳng của họ.
Tính độc lập và tích cực, xem trọng công việc và khôn ngoan trong cách sử dụng thì giờ nhàn rỗi là những điều ao ước mà chúng ta có thể dạy dỗ con cái như là một phần gia sản Cơ Đốc. Trong tất cả những điều này, điều cơ bản là cả cha lẫn mẹ đều phải kiên định trong việc thực hiện kỷ luật. Nếu cha mẹ không thống nhất trong việc dạy dỗ con cái thì không thể có sự hòa điệu được.
Để kết luận, kỷ luật con cái gần như cũng đồng nghĩa với kỷ luật chính chúng ta là bậc cha mẹ.
Đó là một công tác mà cha mẹ phải đồng ý với nhau để thực hiện với một sự cẩn trọng lớn lao vì cớ sự vinh hiển của Đấng Christ. Và bây giờ là lời khuyên nhủ dành cho bậc cha mẹ, Phao Lô nhắc nhở chúng ta, “Hỡi người làm cha, chớ chọc cho con cái mình giận dữ, hãy dùng sự sửa phạt khuyên bảo của Chúa mà nuôi nấng chúng nó.” (Eph 6:4)
SỰ HIỆN DIỆN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI TRONG GIA ĐÌNH
Vấn đề không phải là treo trên tường một câu khẩu hiệu với mấy chữ “Đức Chúa Trời chúc phước cho gia đình chúng tôi” thì sẽ giữ được sự hiện diện của Đấng Christ. Cũng không phải là dán những câu Kinh Thánh thích hợp trong mỗi căn phòng và nghĩ thế là đủ. Có thể những câu ấy sẽ khiến bạn lưu ý, nhưng điều thiết yếu hơn là suy nghĩ cách cân nhắc và thường xuyên thực hiện tinh thần và thái độ của Đấng Christ trong đời sống nhàm chán mỗi ngày giữa vòng những người mà chúng ta xưng là thân thiết. Đó là một công tác không dễ dàng chút nào.
Một số những lãnh đạo Cơ Đốc cấp cao giữa vòng chúng ta thành công trong hầu hết mọi nỗ lực của họ ngoại trừ trong nơi riêng tư là chính gia đình mình. Đôi khi người đã gây ấn tượng nơi chúng ta về hình ảnh tin kính và trầm lặng lại hoàn toàn khác hẳn với hình ảnh mà chúng ta thấy họ tiếp xúc với vợ và con. Những cặp vợ chồng nào hay phô trương trước mặt chúng ta như họ là người rất hào phóng trong việc chia xẻ những phước hạnh vật chất với người chung quanh có thể là những người bóc lột, lợi dụng và cư xử tồi tệ với người giúp việc của mình. Dường như việc kỷ luật tốt lành cho con trẻ ở hội thánh lại quay ngược thành những điều khinh suất và làm cho hư hại trong gia đình.
Khi sống trong gia đình, chúng ta không còn quan tâm đến bộ mặt của mình ngoài xã hội nữa. Chúng ta đã cất bỏ cái mặt nạ thanh nhã và ân cần thân mật thường được trau chuốt, nhưng trở về với chính con người không kiên nhẫn, thiếu yêu thương, thô bạo và không biết điều của mình. Những ông chồng nổi tiếng là chịu đựng giỏi trong văn phòng có thể đang nhiếc móc vợ mình… Những cô vợ có gương mặt dịu dàng ngoài xã hội nay được tự do xỉ vả người giúp việc hoặc người phụ giúp công việc nhà bằng những từ ngữ không ngờ.
Nơi chính yếu bày tỏ tinh thần của Đấng Christ chính là trong gia đình. Có người nói rằng, gia đình là vùng đất để thử luyện tâm tánh của một người. Tôi hoàn toàn đồng ý. Còn hơn là sự thử nghiệm nữa, gia đình bày tỏ con người thật của tôi và con người thật của bạn. Vậy, chúng ta hãy cố gắng nhìn vào chính mình, nào là những tư tưởng, những lời nói, những hành động và những phản ứng của chúng ta trong sự thân mật của gia đình. Tự xem xét chính mình theo góc độ này một cách chân thật là điều rất quan trọng. Vì công việc ấy sẽ khiến chúng ta ý thức được nhu cầu cần Đấng Christ giúp chúng ta đắc thắng những tánh xấu ấy.
Những bậc cha mẹ Cơ Đốc được Chúa kêu gọi để thiết lập gia đình theo ý Chúa và đẹp lòng người ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho chúng ta thấy rằng tinh thần Cơ Đốc không tự động đến với gia đình chúng ta vì chúng ta là Cơ Đốc Nhân đâu. Nhưng tinh thần ấy đòi hỏi chúng ta phải có sự tu dưỡng những tâm tánh Cơ Đốc một cách có mục đích, trước hết trong đời sống riêng tư của chúng ta và sau đó là đời sống của những người chúng ta yêu mến.
Vì thế, chính cha mẹ là người phải bắt đầu từ điểm này. Một người cha ao ước bầu không khí tin kính trong gia đình mình thì phải quan tâm đến đời sống tin kính của chính mình. Như Chúa đã phong chức cho người cha làm đầu gia đình thể nào thì trách nhiệm
của anh không phải chỉ về mặt kinh tế và thể xác nhưng chủ yếu là về mặt thuộc linh và đạo đức. Trong những lời dạy dỗ của Chúa Jêsus, Ngài đặt những gánh nặng trách nhiệm lớn lao hơn trên những người được đặt vào vị trí nắm quyền hành. Ngài nói trong Mat 10:24,25 rằng, :“Môn đồ không hơn thầy, tôi tớ không hơn chủ. Môn đồ được như thầy, tôi tớ được như chủ, thì cũng đủ rồi.” Phẩm chất thuộc linh trong gia đình của chúng ta chỉ có thể được đo lường tùy theo mức độ thuộc linh mà chính bậc cha mẹ đã đạt đến. Vì chúng ta không thể sống vượt quá mức độ thật của mình. Một người cha không đặt Chúa lên trên mọi phúc lợi trong đời sống hàng ngày không thể nào mong đợi những thành viên trong gia đình đặt Chúa lên hàng ưu tiên. Một bà mẹ lúc nào cũng than phiền về tiền bạc và công việc sẽ không thể có được những đứa con biết cách tin cậy nơi Chúa. Những giờ lễ bái gia đình đều đặn sẽ góp phần rất lớn vào sự tăng trưởng với Chúa trong đời sống riêng tư của mỗi cá nhân.
Nhóm họp cả gia đình lại với nhau vào một thì giờ cụ thể trong ngày để suy gẫm về những gì Chúa đã thực hiện trên đời sống mình là truyền thống của người Philippine. Tôn giáo truyền thống đã dạy chúng ta “đọc kinh” vào mỗi cuối ngày hoặc “vừa đọc kinh vừa lần tràng hạt.” Với ý định được truyền thông với Đức Chúa Trời như là một đơn vị của xã hội. Tuy nhiên, giống như việc thực hành bất cứ truyền thống nào, công việc ấy đã bị thoái hóa chỉ còn là một nghi thức chiếu lệ chẳng có ý nghĩa gì và cũng chẳng còn thích hợp với những người Philippine tân thời.
Buổi nhóm gia đình lễ bái nào tập trung vào lời Chúa có thể trở thành một nguồn phước hạnh thuộc linh dồi dào và sự hài hòa trong gia đình khi công việc ấy được thực hiện với một thái độ trông mong lời Chúa sẽ phán hay dạy dỗ cho cả gia đình. Thì giờ này có thể trở nên một cơ hội được chia xẻ với nhau cách đầy ý nghĩa. Cách Đức Chúa Trời đáp lời hiệp nguyện của cả gia đình sẽ nâng đỡ đức tin chúng ta trong đời sống với Đấng Christ. Phần Kinh Thánh mà chúng ta đọc với nhau sẽ nhắc nhở khi những thành viên trong gia đình gặp sự cám dỗ hoặc có vấn đề cần quyết định.
Tuy nhiên, câu hỏi ở đây là có bao nhiêu bậc cha mẹ chịu dành thì giờ để cả gia đình quây quần bên Lời Chúa? Người ta chưa từng nghiên cứu chính xác, nhưng con số phỏng đoán cho biết rằng không có quá 30% các gia đình Cơ Đốc thực hiện công việc này.
Tình trạng nhạt nhẽo và vô vị của buổi lễ bái gia đình có thể vì nhiều yếu tố. Một nguyên nhân quan trọng có thể là vì đời sống tâm linh cằn cỗi của chính bậc cha mẹ. Nếu chúng ta không thấy tươi mới trong sự gặp gỡ Đức Chúa Trời, và lời cầu nguyện của chúng ta chỉ vì những mục đích khẩn cấp mà thôi, thì chúng ta có thể chia xẻ gì với những người khác trong gia đình? Điều gì sẽ giúp họ thấy được sự thực hữu của DCT?
Có lần trong buổi nhóm gia đình lễ bái, một bà mẹ đã cầu nguyện, :“Lạy Chúa, con biết ngày nay con đã rất hung dữ, con đã đánh Bé Huy trong cơn nóng giận và con biết Ngài không đẹp lòng. Xin Chúa hãy tha thứ cho con và dạy con biết kiên nhẫn với nó hơn.”
Không cần ai nhắc, có tiếng cầu nguyện của một đứa bé nối tiếp mẹ nó. Đó là Bé Huy, thằng bé sáu tuổi. Nó cầu nguyện, “Chúa Jêsus ôi, con nghĩ là vì mẹ con rất mệt.
Xin giúp con không hay chọc giận mẹ và cũng tha thứ cho con nữa. Hôm nay con gây gỗ với Jojo rất nhiều. Xin giúp con biết thương em mặc dầu nó rất quậy phá. Nhơn danh Chúa Jêsus, Amen.”
Bố mẹ nhìn nhau. Người mẹ lấy làm hài lòng. Lời xưng nhận về sự yếu đuối đã không làm giảm giá trị của cô trước mặt con. Nó nói rất chính xác. Vì cô rất mệt. Nhưng bên cạnh sự sâu sắc của nó, lời xưng nhận ấy còn khiến con cô ý thức về sự bất toàn của nó trước mặt Chúa. Thế thì, điều cần thiết là phải đến với Ngài để được sự tha thứ. Gia đình đã dấy lên những con người tốt đẹp hơn từ những buổi lễ bái.
Một lý do nữa khiến cho buổi gia đình lễ bái không được ưa thích là vì tính chất giảng thuyết của buổi thờ phượng. Thông thường, ông bố hay có khuynh hướng dùng bài giảng để nhắm vào những kẻ có lỗi trong gia đình để làm thỏa mãn những kẻ khác cho rằng mình công bình. Một sự moral liên miên như vậy vào một người nào đó và xem người ta là con “zero” là cách tốt nhất để giết chết lòng ham thích buổi nhóm lại của gia đình. Đặc biệt những thiếu niên sẽ tránh những buổi thờ phượng ấy như tránh dịch lệ.
Thêm vào cho sự giảng huấn là hát những bài thánh ca cũ rích, dài ngoằn, mệt mỏi mà sứ điệp của lời ca được dự định cho những người ở một vùng khác hoặc lứa tuổi khác. Cũng vì lời cầu nguyện dài nhẹ như gió của người mẹ bao trùm mọi lãnh vực của đời sống mà lại không trình dâng gì được bao nhiêu. Thông thường, điều này làm cho mọi người ở trong tình trạng buồn ngủ mê mệt.
Gia đình lễ bái là phương tiện để chúng ta có thì giờ chia xẻ và thông công quanh Lời Chúa. Một gương mẫu thực tiễn là tập trung sự chú ý của gia đình vào một chủ đề hay đề tài. Những câu chuyện Kinh Thánh với những sự áp dụng thực tiễn luôn luôn là sự thu hút cho cả con nít lẫn người lớn. Những sách hướng dẫn buổi nhóm gia đình lễ bái có bày bán rất rẻ tại các tiệm sách Cơ Đốc sẽ giúp chúng ta đơn giản hóa việc chọn nguyên một khúc Kinh Thánh hay từng phần. Quyển Scripture Union Notes là tài liệu rất tuyệt cho mục đích này.
Chúng ta có thể làm cho DC trở nên thật và Lời Ngài trở nên sống động bằng cách để cho từng người trong gia đình đóng góp ý kiến hay kinh nghiệm khi người ấy liên hệ khúc Kinh Thánh đang nghiên cứu vào đời sống của chính mình. Bằng cách này, cả gia đình đều được giúp đỡ để ý thức rằng những chân lý của DCT rất năng động vì Lời Chúa rất thật đối với đời sống chúng ta.
Hát thánh ca, kể chuyện, đọc Kinh Thánh, suy gẫm, chia xẻ và cầu nguyện là những phần mà chúng ta thực hiện trong buổi nhóm gia đình lễ bái. Dầu chúng ta có kết hợp hay thí nghiệm thế nào đi chăng nữa thì cũng phải luôn nhớ rằng thì giờ đó phải được sự quan tâm thích thú từ người nhỏ nhất cho đến người lớn nhất. Chúng ta cũng nên mời cả người giúp việc trong nhà nữa chứ đừng bỏ mặc cô ta với đống bát đĩa dơ ở dưới bếp trong khi chúng ta lại đang vật lộn với những linh hồn hư mất trong những vùng núi xa xăm tận đâu đâu.
Gia đình nào có một thời khóa biểu không cho phép họ nhóm gia đình lễ bái mỗi ngày không cần phải mang mặc cảm tội lỗi nếu họ chỉ có thể nhóm lại một tuần một lần
hay một tuần hai lần. Số lần nhóm lại không quan trọng bằng tinh thần và thái độ mà chúng ta đến với sự nhóm lại. Điều thiết yếu là “đời sống bày tỏ” Chúa Jêsus trong những ngày thuận lợi cũng như trong lúc buồn phiền hoặc thời điểm gặp cơn khủng hoảng. Đức tin Cơ Đốc được truyền thông một cách hữu hiệu cho những người thân của chúng ta bằng cách để đức tin ấy “hấp thu” từ con người của chúng ta nhiều hơn là qua lời dạy dỗ của chúng ta. Con cái chúng ta sẽ không học biết yêu Chúa Jêsus nhiều khi bạn hình phạt vì chúng không cầu nguyện được nhưng chúng sẽ học yêu Ngài khi thấy chúng ta cầu nguyện cho chúng và cho những người khác.
Điều tốt nhất chúng ta cũng phải ghi nhớ là buổi nhóm gia đình lễ bái không phải là một sinh hoạt mà gia đình buộc phải làm vì Hội Thánh khuyên phải như thế. Chúng ta cũng không nhóm lại vì đó là một điều phổ biến và mọi người đều làm như vậy. Nhưng việc tham dự buổi gia đình lễ bái phải xuất phát từ một sự thuyết phục mạnh mẽ đặc biệt từ phía cha mẹ rằng đây là ý chỉ của DCT dành cho gia đình và chúng ta đang làm vinh hiển Ngài. Nhóm hay không nhóm gia đình lễ bái không phải là một vấn đề để lựa chọn. Nói tóm lại, tinh thần Cơ Đốc trong một gia đình không chỉ được đo lường qua những buổi lễ bái gia đình mà thôi, nhưng còn trên những phẩm chất của đời sống được bày tỏ bởi mỗi cá nhân nữa.
Một gia đình muốn trở thành gia đình tin kính, thành Cơ Đốc Nhân thật không thể tự nhiên mà có được. Người ấy phải xây dựng gia đình. Sự tin kính phải được bắt đầu từ những cá nhân, đặc biệt là từ cha mẹ là những người DCT đã thiết lập làm lãnh đạo của gia đình. Giôsuê trong Cựu Ước đã cảm nhận được tinh thần lạnh lẽo đang len lỏi vào các gia đình của dân Ysơraen, đã đưa ra một lời thách thức để kêu gọi sự quyết định: “Nhưng nếu các ngươi chẳng thích phục vụ Đức Giêhôva thì ngày nay hãy chọn ai mà mình muốn phục sự…Nhưng ta và nhà ta sẽ phụng sự Đức Giêhôva.”
Gia đình của bạn có tỏa ra niềm vui và tình thân hữu cùng mối thông công chân thật không? Nó có thật không? Nếu cởi bỏ tất cả những sự giả mạo của đời này thì có sống với nhau được không? Người ta có thể bước vào và cảm nhận được sự khác biệt không? Thì giờ mà gia đình cùng chia xẻ với nhau trong sự hiện diện của DCT có thể nói được sự khác biệt ấy. Sự lựa chọn là của chúng ta.
CHÚA JÊSUS SỐNG Ở ĐÂY
Tôi ngồi bên bếp canh lửa để nấu nồi cơm. Tôi đẩy những mảnh củi cháy đỏ vào bên trong và thêm củi vào để lửa cứ tiếp tục. Tôi suy nghĩ, thật giống với hôn nhân…Để giữ cho mối quan hệ trong hôn nhân được đầy ý nghĩa bạn phải thường xuyên trông chừng. Bạn cần đốt mãi. Bạn cứ phải giữ cho hôn nhân mãi ấm cúng với ánh sáng rực rỡ khi thời gian trôi đi. Xao lãng là làm cho nó tắt lịm.
Vì hôn nhân là vấn đề phức tạp. Là nền tảng của đời sống gia đình của chúng ta nên nó mang nhiều ý nghĩa. Nó là một sự rối rắm của nhiều mối quan hệ chằng chịt theo một đường lối thân cận nhất. Nhưng đồng thời nó cũng là một khuôn mẫu rắc rối giữa những đặc ân và bổn phận mà chúng ta phải làm trọn. Nói một cách thực tế nhất thì hôn nhân là tiền bạc, nhà cửa, con cái, kỷ luật và nhiều sự đòi buộc khác về xã hội lẫn đạo đức. Đó là lý do tại sao trách nhiệm của con người là điều đáng kinh hoàng.
Người nam người nữ bước vào hôn nhân là do quyết định riêng của chính mình và bây giờ thành công hay thất bại cũng do chính họ tự khẳng định. Họ có thể chọn để xây dựng hôn nhân thành một cơ chế mạnh mẽ, làm vinh hiển DCT qua những nổ lực và sự hi sinh đầy mục đích hay họ có thể giật sập hôn nhân với sự ích kỷ cạn cợt và chẳng thèm quan tâm đến ai. Thật ra, cũng với sức mạnh của chúng ta mà hôn nhân có thể được mạnh mẽ hay bị hủy diệt. Chúng ta có thể làm gì để đời sống gia đình hạnh phúc và hôn nhân của chúng ta là một nguồn vui mừng và thỏa lòng liên tục, chúng ta thực hiện chứ chẳng phải DCT.
Lời kết luận này nhấn mạnh đến những trách nhiệm được giao phó cho con người được đề cập đến ở đây, vì nhiều cặp vợ chồng bị cám dỗ để đỗ lỗi cho DCT hoặc cho số phận vì cớ hôn nhân không hạnh phúc của họ. Tôi không hiểu về số phận, nhưng tôi biết DCT không quá tốt lành và quá yêu thương đến nỗi buộc chúng ta phải chịu khổ một cách không cần thiết. Tại sao lại biến DCT thành nạn nhân của những tội lỗi và lỗi lầm của chúng ta?
Tuy nhiên, có một niềm hi vọng. Luôn luôn chúng ta có thể bắt đầu một lần nữa. Chúng ta có thể thừa nhận sự thất bại của mình và làm mới lại mối thông công của mình với DCT qua Chúa Jêsus Christ. Rồi với sự giúp đỡ của Ngài chúng ta có thể làm thẳng lại những chỗ cong quẹo trong đời sống riêng tư của mình và trong mối quan hệ với con người.
Vì DCT đang sống. Ngài đang sống trong gia đình của chúng ta. Cách đây nhiều năm, nhà tôi và tôi đã mời Ngài làm một thành viên trong gia đình khi chúng tôi bắt đầu chung sống. Ngài góp phần rất nhiều trong đời sống và mối quan hệ của chúng tôi đến nỗi chắc hẳn chúng tôi sẽ thấy cuộc đời mất đi nhiều màu sắc và sự thú vị nếu không có Ngài chia xẻ.
Nhưng đôi khi chúng tôi thật xấu hổ vì cách cư xử của mình với Ngài. Bạn sẽ tưởng như Ngài không có mặt ở đó vậy. Nhiều lúc bị quấn lấy với chính mình chúng tôi đã quên mất Ngài. Đó là lúc những trận cãi vã nổi lên với sự phụ họa của tiếng cửa ầm ầm hay là
tiếng nện thịch xuống bàn. Với tất cả những sự kiên nhẫn bề ngoài, đôi khi trong tôi mang tấm lòng muốn giết người. Tuy nhiên bằng nhiều cách, Ngài làm chủ tình thế và khiến chúng tôi dịu xuống. Trong những giây phút lạnh lẽo, khô cứng chúng tôi xin Ngài giúp đỡ. Thật Ngài đã đem đến sự chữa lành và tha thứ cho tâm hồn chúng tôi!
Tôi cũng biết rằng không phải lúc nào tôi cũng tử tế khi đánh giá về con cái và những người chung quanh. DCT không bằng lòng trước vẻ công bình, cho rằng mình biết mọi sự khi chúng ta nói về người khác. Và tôi cũng biết rằng thỉnh thoảng DCT phải bắt tôi ngậm miệng khi tôi đang nói nửa chừng.
Đó là lý do vì sao chúng ta cần đến Đấng Christ trong hôn nhân của mình. Chúng ta cần Ngài hướng dẫn đời sống gia đình của mình. Sự hiện diện sống động của Ngài giữa chúng ta khiến cho gia đình của chúng ta trở thành một nơi thỏa lòng và đáng sống và luôn muốn trở về dầu cho chúng ta có đi bao xa. Bất chấp những buồn thảm, thiếu thốn, đau đớn, va chạm, những cơn nóng giận phi lý. Bởi vì Ngài đã làm sạch, tha thứ và băng bó những vết thương. Ngài làm cho chúng ta lại được nguyên vẹn.
Ngài phục hồi tình yêu và mối quan hệ của chúng ta cách trọn vẹn. Trong một gia đình lấy DC làm trung tâm thì sẽ có mục đích và ý nghĩa trong tất cả những gì chúng ta gắng sức thực hiện và muốn được trở nên. Niềm vui sống không bao giờ suy giảm.
Một người Philippine cao tuổi nói rằng, “Trong gia đình, người cha là cột trụ và người mẹ là ngọn đèn.” Chúng tôi thêm vào, và DCT trong Chúa Jêsus Christ phải là nền tảng của gia đình ấy. Vì “Nếu Đức Giêhôva không cất nhà, thì những thợ xây cất làm uổng công.” (Thi 127:1)